Giới thiệu

Thầy của chúng tôi - Mấy tiểu khúc

Thứ hai - 29/09/2025 09:07
William A. Ward: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh hoạ, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”.
     Vâng! Suốt đời thầy đã truyền cảm hứng cho lũ học trò chúng tôi! Tôi theo nghiệp Ngôn ngữ học là do được gặp thầy và thầy truyền cho cảm hứng.

Tiểu khúc thứ nhất    
    Năm nay (1996), thầy tôi, GS Nguyễn Tài Cẩn bảy mươi tuổi. Tôi muốn viết đôi dòng như lời tri ân ông của một người học trò. Nhưng cảm thấy khó quá!
Nguyen Tai Can photo by buituan (7)

    Thầy tôi học rộng, tài cao mà trang giấy nhỏ thì chỉ nói được ít ý. Vả lại, tính ông rất khí khái, Nho giáo “thấm sâu vào xương tuỷ” (Lời GS Phan Ngọc), không muốn người khác nói về mình và tự mình cũng không muốn nói về chữ “Ngã”.
    Thuở còn đi học phổ thông, một thầy tôi lúc đó - GS Vũ Ngọc Khánh - trong một lần chê tôi không biết trình bày bảng đã nói: “Tôi có ông bạn là Nguyễn Tài Cẩn, bậc tài hoa, chữ viết rất đẹp, viết bảng khó ai bì. Anh mà được học ông ấy thì được nhiều điều lắm”. Một lần khác, thầy Đặng Văn Đại, dạy tôi ở cấp II, lại nói với cha tôi: “Anh Nguyễn Tài Cẩn vừa đỗ Phó bác sĩ ¹ ở Liên Xô cùng với anh Nguyễn Cảnh Toàn”.
Cha tôi vui và giải thích cho tôi: “Bác Cẩn là Trưởng Ban Tu thư cũ của ba ở Sở Giáo dục Liên khu 4 ngày trước, bác ấy là người giỏi lắm”.
    Thế rồi sau đó ít năm tôi vào khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối hè năm thứ hai (1962), dọc con đường trồng cây hoa phượng ở cư xá khoa Ngữ Văn tại làng Láng, tôi thấy có một người đội mũ phớt, đeo kính mát, mặc com-lê dắt xe máy vào khoa.
    Lớp sinh viên thì thầm bảo nhau: “Thầy Nguyễn Tài Cẩn đấy!”. Kí ức của tôi thức dậy, cộng với tính tò mò của tuổi trẻ, tôi lân la đến gần ông, nhưng không biết thêm được điều gì.
    Mấy ngày sau, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy chính ông trong bộ đồ rất giản dị ngồi hút thuốc lào ở hàng nước cạnh cổng trường, tác phong rất thoải mái, còn học trò lớp trên thì xúm xít quanh ông cười nói cực kì vui vẻ với thầy… Thế rồi, sau đó cơ may đã cho tôi, trong suốt 35 năm qua, được sống, làm việc bên thầy, thầy đã dìu dắt nhiều thế hệ, trong đó có tôi, trưởng thành cùng với nền Ngữ học Việt Nam.
    Con người khoa học của GS Nguyễn Tài Cẩn có thể tóm tắt trong tám chữ: “Sâu sắc - thông thái - tài hoa - nghiêm khắc”. Mỗi chữ chỉ cần nêu một ví dụ. Với việc mô tả thành công danh ngữ tiếng Việt, đi xa tới mức, có lúc coi “loại từ” là trung tâm, ông đã đặt lại cả hệ thống miêu tả cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt (1960). Với việc đặt đúng cương vị ngôn ngữ học của “tiếng một” ông đã khẳng định ảnh hưởng bao quát của đặc trưng “đơn lập” này đối với tiếng Việt (1960). Những tư tưởng đó rất sâu sắc, ngày nay đã trở thành những nội dung cơ bản của các cuộc thảo luận khoa học về tiếng Việt.
    Là người thông thái, ông am hiểu tường tận Ngôn ngữ học, Hán - Nôm, Ngôn ngữ học lịch sử, các lĩnh vực của Việt ngữ học. Diện mạo của công trình của ông thật quảng đại mà lĩnh vực nào cũng rất sâu sắc. Ông hiểu cổ và hiểu kim, bắt rất nhanh những vấn đề của ngôn ngữ học hiện đại trong lúc có thể thảo luận và đề xuất những ý kiến rất độc đáo về cổ ngữ học.
    Thầy Cẩn cũng là một bậc tài hoa, ông dồi dào thi tứ, làm thơ rất nhanh và hay, đặc biệt là thơ chữ Hán. Tuyển thơ ông chắc chắn được coi là một trong những nhà thơ chữ Hán cuối cùng của thế kỉ này. Ở giảng đường Khoa Việt học ở Đại học Paris 7 có đôi câu đối chữ Nôm trên giấy hồng điều đã ngả màu, chữ viết rất đẹp, khuyên học trò phải gắng học. Đó là câu đối của GS Nguyễn Tài Cẩn tặng khoa, lần đầu nhìn thấy bất giác tôi nhớ một lời thơ xưa của Yến Lan:
            “Thầy giáo tôi khi tới buổi đầu,
            Một hòm sách cũ, tấm màn nâu
            Đôi câu liễn giấy long hồ điệp
            Nhán nhấm dài theo nét mực tàu”.
    TS Vũ Đức Nghiệu, ở khoa tôi, kể với tôi rằng ở khoa Đông Nam Á, Đại học Cornell bên Hoa Kì cũng có treo một câu đối Nôm khác của thầy với nội dung khuyên bảo học trò mà thầy đã tặng khi qua đó thỉnh giảng.
    Nói tài hoa của thầy còn phải nhắc đến một người thầy có phương pháp sư phạm cực giỏi. Ông truyền đạt những điều cực kì trừu tượng cho sinh viên bằng một lối nói hết sức cụ thể, sinh động, nhiều lúc pha màu sắc dí dỏm, dân dã, học xong không bao giờ quên được. 
    Về tính nghiêm khắc trong khoa học của thầy thì có rất nhiều câu chuyện. Gần thầy, tôi bị thầy mắng mỏ rất nhiều và khuyên bảo chí tình. Một chuyện vui: có lần một sinh viên làm luận văn với thầy, vì không làm đúng lời thầy nên trốn biệt. Ít lâu sau, lo thi tốt nghiệp, sinh viên ấy đành phải đến gặp thầy. Anh này mang theo chè, thuốc đến tạ thầy. Thầy nhận ngay, nhưng sau đó bắt sinh viên ấy phải ở lại luôn nhà thầy nấu cơm ăn, viết cho đến lúc kì xong luận văn mới thôi.
    Các giai thoại về thầy thì nhiều nhưng vượt lên tất cả là cái tâm xây dựng ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Suốt đời thầy chỉ hướng vào một mục đích là đào tạo và xây dựng học thuật, xây dựng đội ngũ, xây dựng theo hướng chính quy, hiện đại nhưng không xa rời thực tế Việt Nam. Những công việc chuyên môn chưa làm được, thầy rất buồn. GS Hoàng Trọng Phiến đã nói rằng: “GS Nguyễn Tài Cẩn đã thổi một luồng không khí mới vào ngành ta, đã đào tạo bao nhiêu học trò cho ngữ học nước ta, ông xứng danh với những danh hiệu cao quý của khoa học”.
    Thầy tôi suốt đời sống giản dị, giản dị tới mức đạm bạc, tuy ông không thiếu thốn gì. Khi ở nhà cũng như khi đi ra nước ngoài, ông luôn giữ một phong cách riêng mà ông vẫn thường nói là của “Người xứ Nghệ”.
    Vào dịp ông 70 tuổi ta, ở xa quê, tôi nhớ tới thầy và trong một đêm đông tuyết lạnh tôi viết mấy vần thơ Đường luật vụng về, gửi đến thầy nơi quê nhà:
            “Thấm thoát thầy ta đã bảy mươi,
            Dặm dài năm tháng những buồn vui,
            Một đời dạy dỗ tâm trong sáng
            Ba bước phong trần dạ có nguôi.
            Học trò lớp lớp bao tôn kính,
            Bầu bạn gần xa những đón mời.
            Trà rót minh niên buồn cố sự²
            Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.
                            Québec, 1995


Tiểu khúc thứ hai
                                         Năm năm sau. Năm 2000
    Thời gian đi nhanh thật. ThầyCẩn đã bảy mươi lăm tuổi, còn lớp học trò Ngôn ngữ học của thầy năm ấy, cả bọn chúng tôi bây giờ đều đã ngót nghét lục tuần. Thấy thầy còn khoẻ và nhanh nhẹn, chúng tôi mừng lắm. Nhưng thầy lại bảo chúng tôi là: “Tôi chỉ mong cho khoẻ mà làm việc, nếu tôi thọ bằng ông cụ tôi thì cũng chỉ còn được mấy năm nữa! Phải cố mà viết cho xong các dự định”. Tôi giật mình. Từ ngày nghỉ hưu, thầy làm việc tối ngày, bận hơn lúc tại chức. Viết sách. Tiếp sinh viên, nghiên cứu sinh. Hướng dẫn các cán bộ trẻ. Thầy muốn truyền thụ kiến thức và cả tính trung thực và nghiêm khắc trong khoa học. Chuyện khoa học thầy chẳng bỏ qua chi tiết nào.    Từ ngày nghỉ hưu thầy đã viết và cho xuất bản ba cuốn sách. Toàn những cuốn suy nghĩ cả một đời người, nghe tên đã thấy khó: “Ngữ âm lịch sử tiếng Việt”, “Hán văn Lý - Trần”,… Nay thầy lại đang viết sắp xong sách “Cổ Hán - Việt”, rồi còn định viết tiếp về Hán ngữ trong các nước khu vực, làm Từ điển từ nguyên tiếng Việt (đã xong đến vần C). Nhân việc này tôi nhớ đến hai mẩu chuyện về thầy. 
    Ông GS Keith Taylor là nhà Việt Nam học có tiếng ở Mĩ, chuyên gia về Ngữ văn và lịch sử Lý - Trần, xin theo học thầy một khoá chữ Nôm, ông kể lại sau khoá học là đã rất ngạc nhiên gặp một nhà học giả Việt Nam uyên bác, thân thiện nhưng rất nghiêm, có phương pháp giảng dạy rất lạ, rất ngôn ngữ học mà có tính thực hành cao, có hiệu quả rõ rệt. Ông đã học với thầy được gần 500 chữ Nôm phổ dụng nhất và còn biết cả cách dùng nó để đọc văn bản, chỉ sau một thời gian ngắn chăm chỉ học.
    Cách đây không lâu, có một tin vui. Năm nay Nhà nước xét tặng Giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh đợt II cho các công trình khoa học xuất sắc của nước ta. Cụm công trình: “Các vấn đề Ngữ pháp và Lịch sử tiếng Việt” của GS Nguyễn Tài Cẩn là một trong số rất ít các công trình khoa học của khối Ngữ Văn vượt qua được bốn vòng bỏ phiếu nghiêm ngặt của giới khoa học nước nhà trước khi trình Nhà nước. Thầy đang ở nước ngoài, tôi gửi thư điện tử báo tin. Mấy hôm sau, nhận được thư thầy. Thầy vui vì đã được đồng nghiệp tín nhiệm, nhưng nói ngay với tôi là phải lo làm việc trước khi nghĩ đến được khen. Hai năm trước, thầy được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, lúc ấy thầy vắng nhà, khi về, thầy xúc động nói với anh em trong chi bộ: “Tôi theo Đảng sắp 50 năm, lúc nào cũng phải gắng làm người trung thực và nhất quán”.
    Nhớ năm 1996, khi thành lập Khoa Ngôn ngữ học ở trường ta, chúng tôi đều vui, thầy cũng vui, nhưng sau đó trầm ngâm nói với tôi: “Lập khoa là để lo nghĩ cách mà phát triển đào tạo và học thuật, gắng đừng để tụt hậu nhiều so với quốc tế, còn lập khoa mà chỉ để cát cứ hành chính thì rất không nên. Các anh phải luôn nghĩ đến sự liên thông, không chỉ giữa ngôn ngữ học với văn học mà cả với các chuyên ngành khác nữa, và phải gắng nghĩ xa, nghĩ dài hơi, có nhiều cái phải rất kiên trì mới mong thấy kết quả”.
    Thầy khuyên chúng tôi sống giản dị, làm khoa học đừng chạy theo hình thức vì dễ nhiễm tính giả dối. Nhắc chuyện xưa thầy kể: “Hồi ở Liên khu 4, có lần được bầu làm Chiến sĩ thi đua, mình được văn phòng Khu uỷ thưởng cho hai điều: một là được ưu tiên tắm xà phòng mỗi tuần một lần và hai là được phép húp nước cơm trước, mỗi buổi chiều, ở bếp tập thể trong mấy tháng, nhờ đó mà khỏi phù thũng. Nước ta nghèo như vậy đấy, nay có khá hơn, nhưng chưa thể xa hoa được. Khoa học, công nghệ chưa phát triển còn chưa giàu được nhanh đâu”. Tôi cảm động.
    Thầy tôi, mỗi lần nghĩ đến thầy, tôi thấy một nhân cách khoa học lớn, một trí tuệ lớn của một người can đảm đi vào cái mới mà vẫn giữ truyền thống, luôn luôn nghĩ đến phát triển. Cái tuổi thầy nghe nói cũng khá vất vả, nhưng thầy tôi đã luôn luôn: “Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”.
                            Hà Nội, vào thu năm 2000

Tiểu khúc thứ ba 
                                     Những điều chưa nói
    Thầy chúng tôi nay đã tuổi tám mươi tròn. Nhìn thầy vóc dáng vẫn nhanh nhẹn tuy lưng thầy có còng hơn, tóc thầy có bạc hơn:
                Mười năm thầy có già thêm,
            Quê hương, thế sự, lắm đêm nghĩ nhiều.
    Nhưng trong khoa học thì tư duy thầy vẫn trẻ trung, say mê sáng tạo và công trình của thầy thật hoành tráng. Giữa đường thầy đã nhận Giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh, thầy bước lên đài vinh dự cùng với các tên tuổi tiền nhiệm: Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu,…
    “Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi” là bản lĩnh của thầy.
    Được bắt đầu từ một gợi ý văn chương của học giả Hoàng Xuân Hãn trước đó hơn mười năm là phải chăng có thể dựa vào các chữ kị huý trong văn bản Truyện Kiều mà tìm hiểu lai lịch của bản Kiều gốc qua các diễn tiến. Thầy tôi đã trăn trở, lao tâm khổ tứ và quyết định đi vào một vấn đề đến nay chưa ai làm: đem phương pháp của Ngôn ngữ học lịch sử nghiên cứu văn bản. Những bài viết gần đây của thầy mang tính khai phá đã gây xôn xao dư luận giới nghiên cứu cổ học về những ý tưởng mới, rất mạnh bạo mà có cơ sở khoa học.
    Khi thầy 70 tuổi, tôi đã kính thầy mấy vần thơ viết từ nơi xa, nay thầy 80, lại cũng từ nơi xa, tôi xin gửi đến thầy mấy vần hoạ tiếp:
            Mới đó thầy ta đã tám mươi,
            Tháng ngày tâm lực có đâu ngơi.
            Mười năm sáu sách nên danh phận,
            Mấy chốc ngàn trang phải chuyện chơi.
            Thầy nêu gương sáng cho đời trẻ,
            Trò học đạo thầy đến bở hơi,
            Thầy khoẻ, thầy vui, thầy sướng thế,
            Bạn bè, đồ đệ khắp nơi nơi.
                        Seoul, 5-2005
Bài thơ này kính thầy tôi gửi qua E-mail vào dịp sinh nhật thầy. Mấy hôm sau tôi nhận được một bức thư phản hồi rất cảm động của thầy, kèm theo là một bài thầy  đáp lại:
“Tám mươi đâu đã chẵn là trăm,
Chúc thọ còn nhiều, năm lại năm.
Vẫn gắng Yoga: theo Đạo thuật,
Vẫn thường thư giãn: định Thiền tâm.
Vẫn theo Trang Tử: vui đời bướm,
Vẫn học Ngu Công: rút ruột tằm
Sống: ở, Thác: về, tuỳ phận, phúc
Ấy lời đáp tạ khách tri âm.”
Câu sau cùng khiến tôi lặng đi vì xúc động.
    Thành công liên tục trong học thuật của thầy chúng tôi chính là ở chỗ ông có một phương pháp tư duy rất hiện đại và đúng đắn. Thầy nắm rất vững các nguồn lí luận ngôn ngữ học ở các bối cảnh lịch sử khác nhau. Mạnh dạn nhưng cẩn trọng, thầy đã ứng dụng có kết quả các lí thuyết ngữ học vào tư liệu bản ngữ, cả hiện đại và lịch sử, mở ra những ý tưởng rất mới.
    Thầy chúng tôi, trong khi nhận ra những khó khăn thực tế của việc nghiên cứu, đã kiên trì từng bước phổ biến những tư tưởng tiên tiến của Đông phương học. Lớp sinh viên chúng tôi ngày ấy lần đầu tiên được biết đến tên tuổi của Meillet, Bodouin De Courtenay, Sherba, Polivanov, Dragunov, Kholodovich, Jakhontov,… qua bài giảng Ngữ pháp của thầy. Thầy gợi ý và truyền bá những tư tưởng học thuật rất quan trọng liên quan đến tiếng Việt nhưng không theo lối cổ điển là giảng thuần lí thuyết mà thầy làm những việc rất cụ thể.
    Trong những tháng năm chiến tranh gian khổ, khi trường sơ tán ở huyện Đại Từ (miền núi Thái nguyên), thầy tôi bước vào tuổi bốn mươi. Nay ai bốn mươi thì thấy còn trẻ lắm, nhưng thuở ấy trông thầy Cẩn già và khắc khổ. Thầy đã có nhiều nếp nhăn trên trán vì suy nghĩ.
    Ở Đại Từ thầy tôi tiếp tục phát triển các tư tưởng đã hình thành. Tôi vẫn nhớ hai bản báo cáo khoa học lần lượt được thầy trình bày trong cái lán nứa của lớp vỡ lòng ở xóm Hưng Đạo, xã Vạn Thọ trong cuộc hội nghị khoa học của Khoa tôi, hè năm 1966.
    Cuốn sách “Ngữ pháp tiếng Việt” (tiếng - từ ghép - đoản ngữ) nổi tiếng (1975) được thầy khởi thảo từ năm 1967 ở Đại Từ, đến lúc hết sơ tán trở về Hà Nội (1969) thì vừa xong. GS V. Xônxev có lần đã nói: “Nguyễn Tài Cẩn, ông ấy thật sự đã tạo ra một trường phái của Việt ngữ học”. 
                Trong thực tế, thầy đã tìm đến một sở trường mạnh hơn và khó ai làm được trong những người cùng thời và cả sau thầy nếu không có vốn: Nghiên cứu Việt ngữ học lịch sử. Ba mũi nghiên cứu thầy cho triển khai cùng một lúc: Hán - Nôm, Ngữ âm lịch sử tiếng Việt và Ngữ pháp lịch sử tiếng Việt. Thầy chủ trương kéo cả học trò và đồng nghiệp cùng làm. Một nửa Giải thưởng Khoa học Hồ Chí Minh của thầy, năm 2000, thuộc lĩnh vực này. Và sau đó là thầy tiếp tục trong mấy bộ sách gần đây.
    Thầy tôi nghỉ hưu năm 1992, nay đã hơn một Giáp, nhưng thầy đâu có ngơi nghỉ. Số trang thầy viết ra mười năm qua còn dài hơn lúc đi làm. Thầy vẫn cần mẫn, sáng tạo và triệt để trong học thuật nhưng rất mềm mỏng trong xử thế. Thầy vẫn khuyên giải chúng tôi phải thật thà và khiêm tốn. Thầy không vui khi nghe học trò chủ quan, nói to khi chưa chịu học đến nơi đến chốn. Tôi nhớ lời thầy: “Phải luôn luôn đổi mới nhưng cần thật sự cầu thị. Tranh luận là để học nhau mà phát triển. Đừng có hiếu thắng và hư danh. Người ta có nói khác ý mình thì vẫn luôn học được một cái gì đấy”.
    Thưa thầy, chúng tôi hiểu rằng nhiều lúc vẫn chưa làm thầy ưng ý, nhưng chúng tôi luôn an tâm có thầy ở bên chỉ bảo. Chúng tôi vẫn nói với nhau thầy là người Quân tử, cả đời thầy khi xếp hàng thì luôn luôn đứng sau, nhưng chính là đứng trước vậy. Nay thầy Bát tuần, nhìn thầy còn mạnh và minh mẫn. Chúng tôi thấy ấm lòng.
                        Hán Thành, Hè năm Ất Dậu, 2005

Tiểu khúc thứ tư: Vĩ thanh

                             Thầy ta khuất bóng hoàng hôn,
                             Bốn bề hương khói cho buồn lòng ai
            Thế là thầy của chúng tôi, GS Nguyễn Tài Cẩn, đã ra đi. 
Thầy ra đi, dầu đã để lại cho hậu thế một di sản học thuật hoành tráng nhưng vì thế cũng sẽ là một khoảng trống vắng lớn cho Ngôn ngữ học và Văn hoá học nước nhà mà không dễ một sớm một chiều Ngữ Văn học có thể bù đắp được:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
                              Mà nay Hoàng hạc riêng lầu còn trơ”
Là người thầy thiên phú thông minh, lao động cật lực; là nhà khoa học chân chính để lại bao thương nhớ cho đồng nghiệp, lớp lớp học trò, chúng tôi: Tuy đầu đã bạc vẫn cảm thấy lâng châng trong những bước đi tới trong học thuật.
            Cách nay ít năm, trước năm 2000, có người bạn tinh ý bỗng hỏi tôi: “Bài thơ ông kính thầy năm thầy bảy mươi tuổi, hai câu cuối hơi lạ, ông giải thích được không?”. Tôi trả lời: “Đúng đấy, hai câu ấy là hai câu làm thầy rất cảm động”:
                                 “Trà rót minh niên buồn cố sự,
                                Bính Dần lòng đạo chẳng pha phôi”
là tôi có thâm ý nhưng nay giải thích chưa tiện, đành chờ dịp khác vậy. 
     Sau năm 2000, khi thầy tôi được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ, tôi mới đưa ra lời giải thích với bạn tôi: “Thầy Cẩn chính là ông Kim Ngọc trong khoa học xã hội ở nước ta đấy”. Bạn tôi ngớ ra rồi chia sẻ: “Ông nói đúng rồi, thầy đúng là ông Kim Ngọc. Giải thưởng Hồ Chí Minh đã giải toả cho thầy tất cả những quy chụp, những cô đơn không nói ra được suốt mấy chục năm”. Thầy đã kiên quyết đi đầu trong cái mới của học thuật, đi đầu trong chuyên nghiệp hoá công tác nghiên cứu và hội nhập quốc tế nên có lúc đã phải… trả giá”.
           Được tiếp xúc với những tư tưởng và kĩ năng khoa học tiên tiến đương thời, với ý thức đổi mới, thầy phấn khởi và hăm hở đem sự nhạy bén, tài năng, trí tuệ về đóng góp cho đất nước với mong muốn nhanh tay cùng các đồng nghiệp xây dựng nền Ngôn ngữ học nước nhà lúc buổi đầu.
         Tư duy của thầy có khác. Thầy không muốn đi theo lối mòn trong việc xây dựng một cơ ngơi mới là Ngôn ngữ học. Thầy muốn đi tắt đón đầu như cách mà nay ta hay nói. Theo thầy, khoa học nếu đi theo lối mòn thì không bao giờ đuổi kịp quốc tế còn đi tắt đón đầu thì phải có tầm nhìn, có năng lực và phải biết tổ chức, lại phải có thông tin, và nhất là phải được sự đồng thuận. Thầy có biết tất cả những khía cạnh phức tạp đó. 
Thầy có phẩm chất thủ lĩnh trong khoa học vì đã truyền lửa cho đồng nghiệp và truyền cảm hứng cho học trò. Nhưng không phải đồng nghiệp nào cũng chia sẻ được với thầy.
Mùa thu năm 1985, tôi được nhà trường điều động về phụ trách  khoa Tiếng Việt (thay thầy Hoàng Trọng Phiến). Thầy Cẩn ủng hộ tôi không phải vì chuyện quyền hành gì mà thầy muốn tôi đem một tư duy mới của Ngôn ngữ học về một khoa thực hành tiếng mà lâu nay anh em ta chỉ có thói quen giảng dạy theo lối truyền thống. Nhưng thầy cũng băn khoăn và dặn tôi: “Đức cẩn thận nhé, nhớ nhìn trước nhìn sau và thận trọng trong mọi hành động, nhất là với các anh chị lớn tuổi và những người chưa được đi học tập ở nước ngoài. Muốn thay đổi một phương pháp không dễ, cho nên cứ từ từ, làm được đến đâu thì chắc đến đấy”. Đúng là thầy đã có kinh nghiệm quý từ thực tế.
Tôi nghe lời thầy, nhưng thực tế ở dư địa khoa này còn phức tạp hơn thế rất nhiều, và mỗi lần gặp điều phức tạp thì tôi lại nhớ đến lời thầy dặn.               
Thầy luôn động viên tôi, thỉnh thoảng thầy đi chợ Hôm rồi rẽ qua nhà uống nước và hỏi tôi về công việc và góp cho đôi ý. Thầy nói: “Mục tiêu không được thay đổi, có điều có lúc phải đi đường thẳng, có lúc thì phải đi đường vòng, có lúc phải đi đường dích dắc”. Thật là cảm động khi thầy còn dặn tôi là phải liêm khiết, nghèo nhưng không được tham vặt, dầu là bao thuốc lá hay cái kẹo vì môi trường Đức làm việc với bạn nước ngoài, đôi khi người ta cũng cho mình cái này cái nọ, dầu là nhỏ nhưng mà mọi cái cần minh bạch. Tôi thấm thía điều ấy. 
Từ khi có Đổi mới, tâm lí thầy nhẹ nhõm hơn. Thầy vẫn hết lòng, hết sức làm việc. Tôi thấy không lúc nào thầy ngơi công việc, không làm việc cá nhân thì làm việc với các cơ quan bạn: lúc thì Viện Ngôn ngữ, lúc thì Viện Hán Nôm, lúc thì hội thảo này, hội thảo khác,… thầy gầy rộc vì ăn uống không đủ, da xanh tái, nhiều khi thầy hút thuốc liên tục. Tôi cũng can ngăn thầy, lâu lâu để dành được chén rượu hay chút gì tôi cũng muốn biếu thầy, nhưng thầy luôn nói với tôi: “Tình cảm là cái lớn hơn, ông về chăm sóc vợ con và lo cho nhà đi”. Tôi có cảm giác thầy luôn luôn thiếu ngủ, không chỉ vì thức khuya dậy sớm mà còn suy tư thế sự. Có lúc tôi nói thầy cẩn thận kẻo lao phổi. Thấy đùa lại: lao phổi ngày xưa khác, còn lao phổi nay có thuốc để uống khỏi được rồi. 
Có cả chuyện riêng mà nếu không có thầy uốn thì tôi đã đi sai hướng trên những thang giá trị mà mình đã chọn. Tôi vẫn còn nhớ trong thời gian tôi làm Chủ nhiệm Khoa Tiếng Việt (vào khoảng độ 1986-1987), một vài vị quan chức ở Bộ Đại học thấy tôi được việc, muốn xin tôi về làm ở Vụ Hợp tác Quốc tế. Thời đấy vụ này được coi là một vị trí rất khả dĩ, vì có nhiều dịp tiếp xúc với quốc tế và có cơ hội được đi ra nước ngoài, dầu chỉ là những chuyến ngắn ngày. Sau đó ít lâu, ông Vụ trưởng Vụ Tổ chức của Bộ cũng ngỏ ý với ông Hiệu trưởng xin tôi về Bộ để làm quản lí ở một vụ đang còn thiếu người. Có những gợi ý mời mọc, tôi cũng cảm thấy phấn chấn nên đã có lúc xiêu lòng và muốn thay đổi công việc. 
Một chiều tôi tìm đến thầy thỉnh ý.Thầy không vui và chỉ nói nhẹ:” Tooigawngs đào tạo Đức không phải để làm việc này”! Tôi thoáng hiểu ngay ý của thầy. Thầy không những không bằng lòng mà còn khó chịu về cách suy nghĩ của tôi. Đêm. Tôi lấy làm ân hận lắm. chọn thang giá trị nào thì mình nên gắng đi đến trọn đời bằng hết sức mình. Từ đấy, tôi yên tâm làm công việc học thuật và không còn bất cứ mơ màng gì khác. Cuộc đời trở nên thanh thản hơn, tự nhiên hơn và rồi cũng gặt hái được nhiều hơn. Mỗi khi nghĩ đến chuyện cũ, tôi lại nghĩ ngay đến những lời khuyên thâm thuý của thầy và cũng thấy là có lúc mình kém cỏi.     
Thầy bảo tôi: “Muốn gì cũng gắng mạnh, có lực thì mới tự chủ được, một quốc gia đã vậy, một người cũng vậy thôi. Dựa dẫm là không xong, không được đâu, một khi chỗ dựa của mình, vì lợi ích nào đó, mà người ta thoả hiệp với nhau thì mình sẽ nguy đầu tiên đấy, dễ “mồ côi” lắm, ca dao xưa đã chẳng nói là gì:
                                 Trời mưa bong bóng phập phồng,
                                 Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”
Theo lời thầy, tôi nghiệm ra là lúc nào cũng phải cố gắng lên một tí. Thầy cũng rất dân chủ và vui vẻ, dễ gần. Thầy đi đến đâu là có tiếng cười ở đấy (“Cù như Cẩn”), và học trò nghe tiếng thầy giảng là xúm nhau để xem tài thao lược  sư phạm và cái vốn văn hoá rất cao của thầy. 
Với thầy Cẩn, bài học lớn nhất là giữ nhân cách và lao động hết mình. Trong học thuật phải lưu ý đến từng chi tiết. 
Thầy đã nghỉ hưu năm năm, trường và khoa ủng hộ nhiệt thành, nhưng theo nguyên tắc thì huân chương là phần thưởng phải bắt đầu từ mức thấp nhất cho nên Đại học Quốc gia Hà Nội cũng chỉ đề nghị Nhà nước tặng cho thầy Huân chương Lao động hạng Ba. Chờ lâu chưa thấy kết quả. Bỗng một hôm có đại diện Bộ Giáo dục vội về trường nói rằng bà Nguyễn Thị Bình Phó Chủ tịch Nước sau khi xem hồ sơ của thầy thì không đồng ý kí quyết định thưởng. Mọi người ngạc nhiên, thì ông đại diện của Bộ giải thích là bà Phó Chủ tịch Nước đã nói: “Tôi biết rõ anh Cẩn, anh ấy phải nhận Huân chương Lao động hạng Nhất mới xứng, còn nếu trình huân chương Lao động hạng Ba thì tôi không kí đâu”. Cho nên, Bộ ta phải về làm lại thủ tục. Hôm kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam năm ấy, thầy được tặng thưởng Huân chương hạng Nhất.
Thầy được Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000, không chỉ thầy vui mà chúng tôi còn vui hơn vì những gì là lao động của thầy, công lao của thầy đã được ghi nhận. Năm 2008, thầy được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân đặc cách không qua danh hiệu Nhà giáo ưu tú như thường lệ. Đó là sáng kiến, tấm lòng và thái độ kiên quyết của Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn được Đại học Quốc gia Hà Nội nhiệt tình ủng hộ. Thầy cảm động.  Trong cuộc đời, thầy luôn là người biết “giữ mình trong áng can qua”, biết sức mình và thể hiện ở sự chân thành thật sự. Thầy ít chê bai người khác, rất chặt chẽ và khe khắt trong chuyên môn, nhưng để đánh giá các việc khác thầy lại luôn thể tất. 
Mùa xuân năm 2009. Sau Tết, tôi và anh Lê Quang Thiêm đến thăm thầy và chia tay thầy để thầy qua bên Nga. Thầy trò đàm đạo với nhau suốt buổi, uống nước chè và tán đủ chuyện. Thầy vui. Cuối buổi thầy giữ chúng tôi lại ăn cơm. Nhưng anh Thiêm và tôi xin cáo lui để thầy nghỉ. Thầy tiễn chúng tôi ra sân. Mùa xuân đến, sân nhà thầy có cây đào đang nở hoa rất đẹp. Thầy trò đứng dưới bóng cây. Không biết là linh tính thế nào, lần đầu tiên, thầy bỗng ôm lấy từng đứa một và hôn rất thân thiết. Chúng tôi rất xúc động. Cũng không ngờ đó cũng là vòng tay cuối cùng thầy ôm chúng tôi để rồi đi xa mãi mãi.
Năm trước giỗ đầu thầy, tôi mang chai rượu ngô từ Mộc Châu về thắp hương lễ thầy. Chúng tôi lại đứng dưới bóng cây đào dạo trước. Đào lại đang độ nở. Giỗ thầy hăm ba tháng Giêng âm lịch, cũng sau Tết, tôi miên man đứng dưới gốc cây mà lòng bồi hồi nhớ thầy, tựa vào câu thơ xưa của Vũ Đình Liên:
                                     Năm nay đào lại nở
                                    Không thấy ông đồ xưa 
                                    Những người muôn năm cũ
                                    Hồn ở đâu bây giờ? 
                  Thầy tôi đã đi xa, xa thật rồi. Nhưng tâm hồn thầy vẫn ở đây, bây giờ, vẫn ở bên cạnh chúng tôi, những người học trò không giỏi giang cũng chả thông minh gì. Nhưng nhờ thầy dìu dắt, chăm bẵm trong suốt nửa thế kỉ mà đã có được sự trưởng thành nào đó.... Làm được học trò của thầy cũng thật là khó!
 
                                                     Cuối Đông năm Nhâm Thìn, 2012
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây