Rất tình cờ. Hoàn toàn bất chợt. Khoảnh khắc vụt qua như tia chớp mà ý tưởng xuất hiện rồi ra thành lời và được truyền qua hệ thống truyền thanh, Đúng là “Nhất ngôn ký xuất/ tứ mã nan truy”. Nhưng, cho đến nay, tròn 8 năm trôi qua, tôi không hề ân hận, Thậm chí còn lấy làm bằng lòng vì quyết định ấy của mình…
Số 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội - “thánh đường” của khoa học đất nước. Nơi đây, lần đầu tiên tôi được bước chân vào là tháng 9/1969 khi mang giấy báo nhập học đến trình diện. Và lần thứ hai được đứng ở hội trường trong khuôn viên này với tư cách một cựu sinh viên là sau… 48 năm.
Tháng 11 năm 2017, cái năm có kỷ niệm cách mạng tháng mười Nga, tôi, tình cờ được đứng hát “Chiều hải cảng” với 4 nghệ sĩ gạo cội của nền âm nhạc quốc gia, rồi lưu lại Hà thành cùng bạn học cũ khóa 18 khoa Văn tụ tập kỉ niệm 40 năm ra trường bằng một chuyến hành hương lên cao nguyên Plei cu. Thánh đường được chọn làm lễ tri ân những thầy cô còn tại thế và là điểm xuất phát cho chuyến đi. Trang trọng, lịch sự với hoa tươi, trang phục, dàn âm thanh và những gương mặt ghi dấu thời gian qua bao thăng trầm “mưa nguồn chớp bể” cả cả thầy và trò. Bất ngờ, tôi được/bị mời lên thay mặt cựu sinh viên phát biểu. Phải mất chừng chục giây mới đứng dậy rồi di chuyển rồi … lầu bầu với cựu lớp phó Tô Hà, rằng, tại sao mỗi khi lớp có việc gì lại cứ hành tôi lên diễn đàn và ít nhất cũng thông báo trước vài mươi phút mà chân đã đặt đến bậc cấp để bước lên bục lễ đài. Lặng đi vài giây, rồi, tất nhiên như thông lệ là… kính thưa…! Một phát biểu không hề được chuẩn bị, ứng khẩu theo hiện trạng thì trước hết là kính thưa các vị hàng ghế đầu. Không có đại biểu các cấp như thường lệ, chỉ có các thầy cô năm xưa nay đã gần cửu thập. Và, ơ kìa, sao chỉ có các nam giảng viên mới được danh xưng THẦY cao quý. Vậy những người từng dạy chúng ta là… phụ nữ? Cô tôi là THẦY duy nhất thuộc phái yếu đang ngồi đó, sang trọng, thanh cao như một tượng đài, phải là người đầu tiên mà tôi xướng danh:
Kính thưa… THẦY Lê Hồng Sâm!
Hình như có một xao động nhỏ dưới cử tọa. Nhưng đã lỡ, cái bản tính thằng “cựu sinh viên, cựu lính chiến” là tôi bèn sa đà luôn, rằng, sắp có một quy định mới về danh xưng cho tất cả các “giáo viên nữ dạy văn” đều được gọi là Thầy cũng như đang có triển vọng danh xưng Đại học Tổng hợp Hà Nội được “trả lại tên cho em”. Lại có một xao động (hình như lớn hơn) giữa các hàng ghế, nhưng, lúc ấy tôi đã phớt qua tiếp tục kính thưa các thầy Nguyễn Kim Đính, thầy Đinh xuân Dũng, thầy Lê Huy Tiêu, thầy Nguyễn Tường Lịch… Nhớ, 21 năm trước, năm 1996, cũng hội lớp còn được kính thưa thầy Lê Văn Tu, Thấy Đỗ Đức Hiểu… mà ngậm ngùi về lẽ sinh tử rồi ai cũng phải bước qua….
Vâng, sau khi tôi đã tôn xưng lên một tiếng THẦY in hoa với Giáo sư Lê Hồng Sâm thì mọi ngôn từ sau đó hoàn toàn thoải mái, vì, dù sao có phải là một đại hội gì đâu mà cứng nhắc.
Nhà giáo Nhân dân Lê Hồng Sâm. Ảnh: Thành Long
Thầy Lê Hồng Sâm! Hai năm đầu, tôi học chuyên ban Ngôn ngữ khóa 14 trong khoa Ngữ Văn, chưa hoặc không được học Văn học Pháp mà Thầy phụ trách. Thỉnh thoảng có nhìn thấy bóng dáng Thầy xuất hiện ở hội trường, đẹp, thanh cao như một nữ quý tộc phương Tây, mà thầm ước rằng, bao nhiêu lâu nữa liệu có được thọ giáo chuyên đề của bà?! Vậy mà rồi phải khá lâu về sau, năm sáu năm, thậm chí hoặc không bao giờ có cơ hội… Ngày 6/9/1971 gần 400 sinh viên Đại học Tổng hợp nhập ngũ. Sáu tháng sau, 30/3/1972, hầu hết (trong đội hình sư đoàn bộ binh hoặc các binh chủng ) vượt Bến Hải tấn công giải phóng Quảng Trị và quần nhau với đối phương đủ một chiến dịch dài nhất lịch sử chiến tranh Đông dương: 10 tháng, đến 28/1/1973, khi hiệp định Pari có hiệu lực. Non một nửa số quân ngày ấy không còn bao giờ trở về. Cuối năm 1975, Bắc Nam thống nhất, các cựu sinh viên sống sót lục tục về trường học tiếp. Cũng như các bạn Phạm Hải Triều, Nguyễn Đức Điểu, Phùng Huy Thịnh… đã có đôi chút công lao với cách mạng, được đặc cách bỏ Ngôn ngữ “nhảy” sang Văn, tôi học tiếp năm 3 không phải lớp Ngôn ngữ mà là Văn K18 được tự xưng là “ Nền Văn 10”. Và, số phận đã thực sự mỉm cười với anh thương binh mất 61% sức khỏe cùng 6 mảnh đạn còn găm trong sọ và rải rác trên cơ thể: Lên lớp chuyên đề Văn học Pháp năm thứ ba không ai khác mà chính là bà giáo Lê Hồng Sâm….
Giờ này đây, ra trường gần nửa thế kỷ, tôi đi làm báo kiếm sống và có viết văn nhì nhằng cũng không nên đầu nên đũa, những kiến thức về Văn học Pháp được Thầy truyền cho ngày ấy, thú thực, cũng không còn thêm bao nhiêu, vì gánh nặng cơm áo? vì bao bấn loạn cuộc đời?. Ấy vậy mà, hồi ấy tôi đã dám làm luận văn về một tác phẩm nổi tiếng trong nền Văn học Pháp: ĐỎ và ĐEN của Standal. Chính tôi cũng không hiểu vì sao lại chọn đề tài luận văn này trong khi tôi không theo học lớp tiếng Pháp mà ngây thơ theo đuổi tiếng Nga như một niềm tin cố hữu, rằng, đã mang ơn/ nợ đất nước này cho mình “tạm ứng” chiếc xe tăng hành quân ra trận. Tôi dường như không đủ sức đọc những tài liệu liên quan để trích dẫn mà cứ viết theo những gì cá nhân mình cảm nhận về cuốn tiểu thuyết. 48 năm trôi qua, bây giờ, chính tôi cũng đang vào tuổi già nhớ nhớ quên quên, hình ảnh Thầy Sâm trên bục giảng cũng dần nhạt nhòa. Những lần được thầy sửa văn trong luận văn cũng lưu trong bộ nhớ không nhiều. Có một chi tiết cận cảnh luôn hiển hiện trong suốt cuộc đời: Tôi làm luận văn trong trạng thái dạ dày luôn gào thét. (Là một thằng trai Lệ Thủy quê lúa và cá, dù đã xa quê tròn 10 năm, tôi vẫn không thế nào quen được với suất cơm thảm hại của sinh viên thời bao cấp). Bà đã chỉnh sửa luận văn của tôi đến từng từ. Bà nhắc: - Phải viết là TRÌNH tự chứ, sao là TÌNH tự? Nghĩa của hai từ này rất khác nhau. (Có lẽ tôi viết từ ấy khi lượng đường trong máu đang xuống mức tối thiểu). Một lần, tôi ăn mặc rất lươn khươn, áo bà ba màu nâu sẫm quần lính bùng nhùng, đang lang thang trong cư xá thì bất ngờ gặp bà và GS. Đặng Thị Hạnh. Tôi kính cẩn chào và bà có dừng lại trao đổi điều gì đó về luận văn. Hôm sau, gặp lại, bà nói: "Hôm ấy cô Hạnh nói với cô, sao chị có cậu sinh viên kỳ dị thế?!". Một lời có ý phê bình mà sao giọng bà vẫn đầy tình nhân ái? Vậy mà có tác dụng, tôi không mặc kiểu lập dị đến mức bê tha chán đời ấy nữa.
Rồi cũng tới ngày bảo vệ luận văn tốt nghiệp. Tôi … “ba chi khơ” đến mức, ngày mai bảo vệ mà tối nay mới định viết tóm tắt. May thay hay rủi thay, tối đó tôi lại được/bị mấy cô sinh viên hệ Dây của trường Đại học Âm nhạc nhắn ra chơi. Ôi, một thằng trai 25 tuổi đang “máu gái “ như tôi có thể bỏ qua được vận may này chăng?!. Bởi thế mà sáng hôm sau, khi ở phòng bảo vệ luận văn đã nổ pháo khai mạc mà tôi còn hì hục ngoáy cho xong bài rút gọn dài 8 trang A4. Lên bục trình bày, tôi đọc văng xê những điều trong bài rút gọn và cả những ý tưởng tôi vừa nghĩ ra. Có thể lịch sử sinh viên khoa Văn chỉ có tôi làm luận văn tốt nghiệp mà Giáo sư phản biện cho nhiều điểm (Cô Đặng Thị Hạnh cho 9 điểm) hơn Giáo sư hướng dẫn (8 điểm).
Rồi mãn khóa, hụt hẫng tâm lý. Rồi lang thang như cánh chim, như con thuyền bơ vơ tìm bến đậu, tôi về Huế làm báo kiếm cơm với đồng lương còm giữa một thành phố cố đô mới giải phóng đang dần chìm vào đói kém thời hậu chiến. Lấy vợ sinh con, chàng cử nhân Văn khoa Hà Nội, nhà báo có lương, chạy kiếm từng đồng mua sữa, mua gạo cháo cho con. Bi thảm đến mức, tôi gần như mỗi tuần đều phải đi bắt cá, cóc nhái ở ven đô về cải thiện chất đạm cho bữa ăn. Người Huế nhìn cán bộ miền Bắc thiếu tôn trọng và không dấu được vẻ miệt thị. Thầy về trường Đại học Huế thỉnh giảng. Tôi đến thăm bà như để tìm chút hơi ấm và không quên chia sẻ tủi phận của anh cán bộ miền Bắc đói nghèo. Thầy nói: Trong hoàn cảnh ấy mình càng phải sống thanh cao và là MỘT LỜI CẢI CHÍNH.
Vâng, thưa Thầy, từ bấy đến nay em luôn vẳng bên tai lời dạy dỗ ấy, một bài giảng không có trong giáo trình Văn khoa Hà Nội.
*
Người ta nói rằng, dạy Văn, ngoài việc truyền đạt kiến thức, việc kích hoạt tình yêu Văn chương và khám phá những tầng vỉa trong kho tàng văn hóa của dân tộc, nhân loại và những bí ẩn trong tâm hồn con người là rất quan trọng. Kích hoạt, đương nhiên các Thầy chúng tôi ở khoa Văn hầu hết đều làm như vậy. Riêng Thầy tôi, Thầy Lê Hồng Sâm còn làm được nhiều hơn thế, làm gấp đôi yêu cầu ấy. Xa Thầy gần nửa thế kỷ, kí ức còn lưu ảnh mỗi lần Thầy bước vào lớp là như mang theo một luồng không khí dịu nhẹ, phớt hồng và mát mẻ. Khi thầy giảng bài, quanh Thầy như có một quầng sáng cũng phớt hồng và dịu nhẹ. Có lẽ chính cảm giác đó đã khiến tôi chọn tác phẩm ĐỎ và ĐEN rất “khó gặm” để được Thầy hướng dẫn. Làm luận văn về Văn học Pháp mà vốn ngoại ngữ của tôi chỉ đủ để đọc những bộ phận trên chiếc xe đạp theo tiếng Pháp bồi: Gác đờ bu, gác đờ sên, moay ơ, phoóc ba ga và những vị trí trên sân bóng đá: A ri e (hậu vệ) Gôn ( thủ thành) Manh ( hô lê manh- Giơ tay lên)… Và, chính vẻ thanh cao của Thầy đã kích hoạt tôi sống tự chủ, luôn muốn bồi đắp bản tính của một sinh viên ra lò từ giảng đường Văn khoa. Chính thầy đã phát hiện ra cá tính hiếu động của tôi và khuyên ra trường nên làm báo. Làm báo cho thỏa chí tang bồng vùng vẫy, khi nào đủ độ chín thì chậm lại và viết văn. Lời khuyên của Thầy tôi lúc nhớ lúc quên nhưng, tình cờ mà đã theo đúng như vậy dẫu đã sớm nghiệm ra nghiệp văn là “nghiệp giời đày”.
Năm xưa, Thầy biết tôi viết luận văn khá ẩu nên cho điểm không cao. Tôi không hề buồn mà thậm chí coi như một lời nhắc nhở trên đường đời. Và tôi vẫn thế, vẫn viết tùy hứng nhưng cẩn trọng trong câu chữ, cẩn trọng trong từng dấu phẩy, những chữ những dấu phẩy mà ngày xưa Bà đã sửa cho tôi.
Tri ân! Trong suốt quãng đời học trò chắp vá, từ khi học trường làng, trường xã rồi lên đường đi bộ ra Bắc giữa một trời bom đạn và để tránh sự kì thị chủ nghĩa lý lịch, thành phần, rồi trận mạc cắt đôi khóa học, tôi đã được nhiều giáo viên lên lớp. Có người tôi gặp như thể qua đường. Có người tôi coi như thần tượng. Riêng với Thầy tôi, một ngày mùa đông năm 2017, trước chuyến bay vào cao nguyên hội lớp, trong mục tri ân thầy giáo cũ, cảm ơn cựu lớp phó Tô Hà đã bắt cóc lên bục để tôi được một lần nói lên giữa thinh không của thánh đường, 19 Lê Thánh Tông Hà Nội, năm tiếng thiêng liêng:
Kính thưa THẦY Lê Hồng Sâm!