Một nhà giáo tâm huyết với nghề

Thứ năm - 08/10/2015 02:30
Giáo sư, tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đức Dân sinh năm 1936, quê quán tại xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam. Ông là một trong các hậu duệ xuất sắc của cụ Tam Nguyên Yên Đổ - nhà thơ Nguyễn Khuyến. Năm nay ngấp nghé bước vào tuổi bát thập, cái tuổi được gọi là “xưa nay hiếm”, thế nhưng hiếm khi người ta thấy ông lại nghỉ ngơi.
Một nhà giáo tâm huyết với nghề
Một nhà giáo tâm huyết với nghề

Sự yêu thích chuyên môn và lòng say mê với sự nghiệp “trồng người” khiến giáo sư quên đi cả những năm tháng tuổi già để “trẻ lại” cùng các thế hệ học trò thân yêu và với các bộ môn khoa học non trẻ mà ông là một trong các chuyên gia đầu ngành có công tạo dựng ở Việt Nam. Đó là môn Ngôn ngữ học thống kê, ký hiệu học và một bộ môn thuộc khoa học liên ngành: Lô gích và tiếng Việt. Đó là những môn “độc chiêu” mà ông đã tham gia giảng dạy trong suốt mấy chục năm qua ở nhiều trường đại học khác nhau.

Vốn xuất thân từ một giáo viên dạy Toán (ông tốt nghiệp Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1957), sau khi được đào tạo tiến sĩ tại Ba Lan. Về nước, giáo sư Nguyễn Đức Dân trở thành một cánh chim đầu đàn của môn Ngôn ngữ học thống kê tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Ưu thế của tư duy toán học đã giúp ông nhanh chóng nắm bắt các tri thức cơ bản của ngôn ngữ học để sau này tự rèn luyện, làm việc và nghiên cứu, trở thành một nhà nghiên cứu tài ba trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành và liên ngành với 18 công trình nghiên cứu (cả viết chung) được xuất bản và 40 bài báo chuyên môn đã công bố trên những tạp chí khoa học trong và ngoài. Trong đó, tiêu biểu là là các công trình về Ngôn ngữ học thống kê, Từ điển, Lô gích-ngữ nghĩa và cú pháp, Lô gích và tiếng Việt, Ngữ dụng học… Điểm đáng chú ý là, ngay từ gần nửa thế kỷ trước, khi nhiều nhà nghiên cứu còn giương cao chủ thuyết tích cực đi vào “chuyên môn hẹp” với tinh thần “càng hẹp càng sâu” thì GS. Nguyễn Đức Dân đã nhìn thấy tính tất yếu của nghiên cứu liên ngành. Bởi vậy, ngay từ buổi mới “vào cuộc” ngoài cái lĩnh vực rất chuyên sâu (ngôn ngữ học thống kê) ông đã hướng tới một chân trời khoa học mà ở đó cần phải có sự liên kết chặt chẽ của nhiều ngành khoa học mới có thể nhận thức bản chất của đối tượng một cách sâu sắc. Với cách nhìn tỉnh táo đó, ông đã mạnh dạn khoan những mũi khoan vào nhiều điểm khác nhau của một đối tượng “khổng lồ” là tiếng Việt trên nhiều phương diện nghiên cứu ở cấp độ từ, cú pháp, văn bản. Những công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học của ông vì thế luôn có một nét riêng không dễ trộn lẫn với các nhà nghiên cứu khác. Nó mở ra một hướng đi mới trong nghiên cứu tiếng Việt bên cạnh các xu hướng nghiên cứu truyền thống, nghiên cứu đơn ngành.

Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đức Dân/Ảnh: Thành Long

Các thế hệ học trò được GS. Nguyễn Đức Dân đào tạo thường tiếp thu được ở ông những thao tác nghiêm ngặt trong nghiên cứu và phương pháp tư duy chặt chẽ. Đây là một đặc điểm nổi bật trong các công trình khoa học của ông. Có được kết quả này là do ông vốn đi lên từ một chuyên gia về lô gích học lại xuất thân từ nghề dạy toán. Những con số chính xác cộng với thói quen của lô gích lập luận làm cho các công trình khoa học của ông luôn có được một cấu trúc hoàn chỉnh. Trong đó, mọi miêu tả, phân tích đều dựa trên những cơ sở khoa học chắc chắn, với những số liệu minh chứng rõ ràng. Bởi vậy, nhiều vấn đề mới ông khai phá, tuy không phải lúc nào cũng dễ tiếp cận đối với tất cả những ai đang làm công tác nghiên cứu chuyên ngành, vẫn có tính thuyết phục. Đó là chưa nói, một số vấn đề lý thuyết khi ông triển khai vào thực tiễn lại tạo ra những hấp dẫn riêng.

Có thể nói, một đời làm thầy, GS. Nguyễn Đức Dân chưa lúc nào ngừng công việc nghiên cứu, khám phá, sáng tạo. Ông luôn coi việc nghiên cứu là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với công tác đào tạo ở bậc đại học, nhất là với các trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản như Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh trước đây và hiện nay là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh. Bởi không nghiên cứu sẽ không thể cập nhật với trình độ khoa học của thế giới và không thể có “vốn” để đào tạo các sinh viên và nghiên cứu sinh. Cho nên, ngay từ ba, bốn chục năm trước, ông đã cùng với nhiều nhà giáo lão thành của Bộ môn Ngôn ngữ học (nay là Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) luôn chú ý đến việc gắn lý thuyết với thực tiến, gắn việc học tập với nghiên cứu khoa học ngay trong đội ngũ sinh viên. Có không ít sinh viên giỏi, ngay từ năm thứ hai, thứ ba đã viết thành công những khoá luận và báo cáo khoa học ở lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành. Một số sinh viên xuất sắc được ông hướng dẫn luận văn tốt nghiệp đại học (bây giờ gọi là khoá luận tốt nghiệp cử nhân) ngay sau khi rời ghế nhà trường đã có các bài nghiên cứu đăng trên tạp chí. Trong số đó, nhiều người đến nay đã trở thành các nhà nghiên cứu có tên tuổi.

Ảnh: Thành Long

GS. Nguyễn Đức Dân là người sống rất trọng tình. Đó là cái tình không chỉ ồn ào, thoáng qua mà sâu lắng bền lâu. Từ năm 1988, do nhu cầu công tác, ông và một số giáo sư lão thành của ngành Ngữ văn đã vào thành phố Hồ Chí Minh để xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà khoa học ở phía Nam sau khi đất nước thống nhất. Con đường dài hai ngàn cây số không bao giờ làm giảm nhiệt tình của ông đối với cái nôi khoa học, nơi ông lập nghiệp từ thuở ban đầu. Đó là Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Hàng năm “đến hẹn lại lên”, ông thường ra Hà Nội giảng dạy tại các cơ sở đào tạo hoặc tham gia phản biện luận án tién sĩ ở một số hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Nhà nước. Ông cũng là thành viên tích cực tham gia giảng dạy chuyên đề sau đại học và giảng dạy các môn học cơ bản, nâng cao cho sinh viên hệ Chất lượng cao của Khoa Ngôn ngữ học Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN. Mỗi lần ra Bắc, ông không quên các học trò cũ của mình nay đang công tác tại trường và các cơ quan, viện nghiên cứu ở Hà Nội. Ông thường dành những cuốn sách mới xuất bản đem tặng học trò. Đồng thời ông cũng vô cùng phấn khởi mỗi khi các trò của mình có một công trình được xuất bản. Cái tình của ông thật trầm lắng mà sâu sắc. Nó được thể hiện ở mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi phút trò chuyện. Không chỉ có niềm vui, mà ngay cả ai đó có nỗi buồn, gặp trắc trở hay oan khiên, ông đều cảm thông, chia sẻ, động viên bằng những lời mộc mạc nhưng vô cùng cảm động.

 GS. Nguyễn Đức Dân còn là một người nhiệt huyết và đầy trách nhiệm. Nhắc đến ông, mặc dù mấy chục năm đã trôi qua, nhưng đến nay nhiều  người trong Khoa Ngữ văn vẫn còn nhớ đến công lao không nhỏ của ông trong việc kiến tạo ra những mối quan hệ hợp tác với nước ngoài. Đó là năm 1979-1980, khi sang giảng dạy tại Đại học Paris 7 (Cộng hoà Pháp) ông đã mở ra một chặng đường mới trong hợp tác giảng dạy giữa hai trường Đại học Paris 7 và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Có nhiều chuyến công du của các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn sang nước Pháp bắt đầu từ đây. Chỉ riêng việc tạo cầu nối cho những người đi sau tiếp tục “xuất dương” có thể nói ông là một người rất có ý thức trách nhiệm đối với đồng nghiệp và thế hệ trẻ.

Sự nghiệp đào tạo của giáo sư đã trải qua gần nửa thế kỷ. Bây giờ khắp ba miền Trung - Nam - Bắc đều có những học trò  được ông đào tạo đã trở thành các nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sĩ. Không những thế, ông còn có công đào tạo nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài. Cho đến nay, ông đã hướng dẫn thành công tổng cộng là 10 luận án tiến sĩ và phó tiến sĩ.

Được Nhà nước phong hàm Giáo sư từ năm 1996, ông luôn phát huy những năng lực chuyên môn của mình để vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu và đào tạo các thế hệ cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Cho đến nay, ngoài các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành ông còn cho xuất bản nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như: Dictionnaire de fréquence du Vietnamien,  Ngôn ngữ học thống kê: Tuyển tập tiếng cười thế giới, Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp (viết chung), Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Lôgích và tiếng Việt, Tiếng Việt: dùng cho đại học đại cương, Nhập môn thống kê ngôn ngữ học, Ngữ dụng học, Thống kê ngôn ngữ học: một số ứng dụngNhập môn Logic hình thức & Logic phi hình thức, Từ câu sai đến câu hay.

Năm nay, GS. Nguyễn Đức Dân sắp bước sang tuổi 79. Các thế hệ học trò vẫn đang chờ đón những bài giảng của ông để học ông một phong cách làm việc, rèn luyện và phấn đấu không mệt mỏi cùng với những tri thức mà ông đã tích luỹ của một đời tâm huyết làm thầy và làm khoa học.

GIÁO SƯ, TIẾN SĨ, NHÀ GIÁO ƯU TÚ NGUYỄN ĐỨC DÂN

  • Năm sinh: 1936.
  • Quê quán: Hà Nam.
  • Tốt nghiệp đại học tại Khoa Toán (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) năm 1957.
  • Nhận bằng Tiến sỹ chuyên ngành Ngôn ngữ hình thức (Đại học Tổng hợp Warszawa, Ba Lan) năm 1970.
  • Nhận chức danh Phó Giáo sư năm 1991.
  • Nhận chức danh Giáo sư năm 1996.
  • Nhận danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 1998.
  • Thời gian công tác tại trường: 1971- 1987.

+ Đơn vị công tác: Khoa Ngữ văn (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội).

  • Các hướng nghiên cứu chính: Lô gích & ngôn ngữ; Ngôn ngữ học thống kê; Ngữ dụng học; Ký hiệu học; Ngữ nghĩa - ngữ pháp.
  • Các công trình khoa học tiêu biểu:

Dictionnaire de fréquence du vietnamien (avec la collaboration de Lê Quang Thiêm), Ed. Paris VII, 1980. 

Ngôn ngữ học thống kê , NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1984.

            Logic - ngữ nghĩa - cú pháp, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1987.

            Lôgích và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996.

            Ngữ pháp tạo sinh,NXB Đại học Quốc gia Tp HCM, 2012.

            Từ câu sai đến câu hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2013.

                                                          

Tác giả: PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây