Giáo sư Trần Đức Thảo - nhà triết học lỗi lạc

Thứ hai - 26/10/2015 08:55
Triết gia Trần Đức Thảo để lại hai bài học lớn. Thứ nhất là bài học về phương pháp tư duy. Bài học thứ hai, không kém phần quan trọng, là bài học về nhân cách người trí thức Việt Nam, và cũng chính là bài học làm người.
Giáo sư Trần Đức Thảo - nhà triết học lỗi lạc
Giáo sư Trần Đức Thảo - nhà triết học lỗi lạc

Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Cho đến nay, ông là triết gia Việt Nam duy nhất nổi danh trên diễn đàn khoa học và được công nhận có tầm vóc quốc tế ở phương Tây. Nếu tính cả quãng thời gian tu nghiệp tại Pháp (vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước) và những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, được in tại Pháp của ông, thì Trần Đức Thảo còn là một triết gia Pháp. Ông là người Việt Nam độc nhất, ở thế hệ của mình, có con đường học vấn Triết học thực thụ.

Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn quốc Pháp. Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà Nội. Năm 1936, ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư phạm phố d' Ulm (Thủ đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư tưởng tân tiến, văn hoá và khoa học hiện đại. Trường cũng nổi tiếng là cái nôi đào tạo những nhà tư tưởng và những chính khách cho nước Pháp. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào trường này với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị thạc sĩ triết học về luận án Phương pháp hiện tượng luận của Husserl.

Triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993)/Ảnh: Bùi Tuấn

Hoà bình lập lại trên miền Bắc năm 1954, ông được cử làm Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, giảng dạy môn Lịch sử triết học ở Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1956-1957). Những  bài giảng của ông về Lịch sử triết học sau này đã được các cựu sinh viên như Nguyễn Hoàng Gia biên tập lại và xuất bản thành sách Lịch sử tư tưởng trước Marx, (NXB KHXH, 1995). Sau đó, Trần Đức Thảo thôi giảng dạy ở trường đại học, ông dành nhiều thời gian nghiên cứu các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, làm chuyên viên Nhà xuất bản Sự thật.

Có thể khái quát những hướng nghiên cứu chính trong cuộc đời khoa học của triết gia Trần Đức Thảo như sau:

Thứ nhất là sự đối chiếu hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ yếu thuộc giai đoạn ông sống và viết ở Pháp (1941-1951). Hướng lớn thứ hai của Trần Đức Thảo gồm những công trình viết về sự chuyển hoá của phép biện chứng duy tâm Hegel thành phép biện chứng duy vật ở Mác, cùng vai trò của chủ nghĩa Mác trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hướng thứ ba gồm những công trình nghiên cứu có thể được xếp vào chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo (1966-1986). Đây cũng là một phần của hệ vấn đề vẫn làm Trần Đức Thảo trăn trở từ thập niên 1940: ý thức, tư tưởng xuất hiện như thế nào trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua sinh vật, lên nhân loại. Cũng chính ở mảng này, ông đã để lại một tác phẩm có tầm vóc quốc tế nữa. Hướng thứ tư liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó, ông cũng nêu sơ đồ tiến hoá của lịch sử loài người, từ "xã hội cộng sản nguyên thủy" lên "xã hội cộng sản khoa học", thông qua sự chuyển biến của các phương thức sản xuất trung gian.

Như vậy, tư tưởng của Trần Đức Thảo trải rộng đến rất nhiều vấn đề từ Triết học đến Sử học, Nhân học, Sinh học, Ngôn ngữ học, Văn học và Tôn giáo học… Mặt khác, những chủ đề mà ông quan tâm cũng là những nội dung rất căn cốt của Triết học kinh điển và Triết học Mác như chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng, bản thể luận, nhận thức luận, lôgic học, cùng những đề tài nhân sinh liên quan trực tiếp đến số phận và hoạt động của con người, của xã hội…, vốn là những nội dung mà không một nghiên cứu triết học cơ bản nào có thể lảng tránh.

Trần Đức Thảo đã đến với Triết học vào thời kỳ rất khó khăn. Cùng với thời đại của mình, ông đã thừa hưởng từ Husserl và Mác cả không khí khủng hoảng, lẫn giấc mơ cải tạo thế giới bằng lý trí của họ. Cho đến lúc này, Trần Đức Thảo là người Việt Nam duy nhất có trường phái Triết học mang tên mình và hiện vẫn đang được nhiều học giả tìm hiểu, nghiên cứu. Không kể ở Pháp, mà ngay tại Đức - đất nước của Triết học - cũng có nhiều người làm Triết học tự nhận là môn đệ của Trần Đức Thảo. Rõ ràng, ông là một nhà Triết học châu Á đã có những suy tư một thời làm rung chuyển nền tảng tư duy lý luận châu Âu.

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác, được đào tạo chính quy tại trường cao đẳng sư phạm phố d’Ulm nổi tiếng ở Paris nên ông có cơ hội hoạt động trong một môi trường trí thức tinh hoa Pháp và có liên hệ gần gũi với nhiều Triết gia có ảnh hưởng lớn trong sinh hoạt Triết học nửa sau thế kỷ XX như Jean-Paul Sartre, Merleau-Ponty, Alexandre Kojève, Louis Althusser, Jacques Derrida… Đó là những tư tưởng gia hàng đầu của trào lưu hiện tượng học, của chủ nghĩa hiện sinh. Đồng thời, những phát kiến và tư tưởng của ông đều được họ công nhận và đánh giá cao như là "những cống hiến độc đáo cho các lĩnh vực Triết học, Nhân chủng học, Ngôn ngữ học" (Daniel J. Herman).

Một số học giả trong nước đã xem “Trần Đức Thảo là nhà Triết học lớn của thế kỷ” (Huy Cận); “Trần Đức Thảo là nhà Triết học lỗi lạc của Việt Nam và của thế giới” (GS. Vũ Khiêu); “Việt Nam chỉ có một nhà Triết học duy nhất là giáo sư Trần Đức Thảo” (GS. Trần Văn Giàu). Ông xứng đáng được người Việt Nam ngưỡng mộ và tôn vinh là một Triết gia ngang tầm với những nhà Triết học hàng đầu thế giới.

Với Chủ nghĩa Mác, Trần Đức Thảo được đánh giá là người đã có công phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng thành chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản (Cù Huy Chử), mà Mác là người tạo dựng. Trong Triết học, ông đã tạo nên một hệ thống tư duy tổng thể liên tục tiếp thu cái mới, và theo nghĩa đó, Trần Đức Thảo cũng là một Triết gia “tạo dựng”. Lần đầu tiên có một Triết gia thuộc trường phái Husserl là Trần Đức Thảo thành công trong việc kết hợp hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác.

Trần Đức Thảo thành nhà Hiện tượng học nổi danh với tư duy đặc sắc có khả năng soi chiếu tỉnh táo các vấn đề hóc búa nhất của Triết học. Từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác đến khi về cõi vĩnh hằng vào ngày 19/4/1993, thời gian cách nhau trên 40 năm, ông đã dành toàn bộ thời gian đó để hiện thực hóa phương pháp luận mácxit, làm cho Triết học gắn chặt với đời sống, bám chặt lấy số phận con người dân tộc mình. Trần Đức Thảo có niềm tin sâu sắc rằng chủ nghĩa Mác không phải là một lý thuyết giáo điều, mà phải là ngọn đuốc thực tiễn dẫn đường cho cuộc cách mạng vô sản. Ông nhận thức sâu sắc khả năng lý giải các vấn đề bản thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với nghĩa đó, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, có một triết lý mang tên Trần Đức Thảo và càng có “tư duy và phong cách Trần Đức Thảo” - một đóng góp lớn của trí tuệ Việt Nam cho nhân loại. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một năng lực trừu tượng hoá cao, kế đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề Triết học dưới ánh sáng của những phát kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên cứu liên ngành.

 Vẫn học giả Daniel J. Herman viết một câu thận trọng mà tình nghĩa, khiến chúng ta - đồng bào của ông - không thể không chia sẻ: "Hy vọng chân thật rằng Trần Đức Thảo, nhà mácxit và nhà hiện tượng học đặc sắc, cuối cùng sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử tổng quát của ý nghĩa”. Bởi vì, ông đã viết những tác phẩm Triết học mang đậm phong cách hàn lâm bằng chất liệu rút ra từ đời sống thực ngay chính trên tổ quốc của mình.  

Triết gia Trần Đức Thảo để lại hai bài học lớn. Thứ nhất là bài học về phương pháp tư duy. Bài học thứ hai, không kém phần quan trọng, là bài học về nhân cách người trí thức Việt Nam, và cũng chính là bài học làm người. 

GIÁO SƯ TRẦN ĐỨC THẢO

  • Năm sinh: 1917.
  • Năm mất: 1993.
  • Quê quán: Bắc Ninh.
  • Đỗ tú tài năm 1935.
  • Nhận bằng Thạc sỹ Triết học tại Trường Cao đẳng Sư phạm phố d’Ulm (Cộng hoà Pháp) năm 1945.
  • Được công nhận chức danh Giáo sư năm 1957.
  • Thời gian công tác tại trường: 1954-1957.

+ Chức vụ quản lý:

            Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa (1954).

            Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956-1957).

  • Các hướng nghiên cứu chính: Triết học, ứng dụng triết học trong nghiên cứu các vấn đề lịch sử, xã hội thế kỷ XX; Nhân học; Tôn giáo học...
  • Các công trình khoa học tiêu biểu:

Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng), Minh Tâm, Paris, 1951.

Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (tiếng Pháp), NXB Xã hội của Pháp, 1973.

Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.

Sự hình thành con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.

Lịch sử tư tưởng trước Marx, NXB KHXH, 1995.

  • Các giải thưởng khoa học tiêu biểu:

Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2000 cho công trình Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức.

 

Tác giả: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây