Ngôn ngữ
Hội thảo được chia thành 04 phiên: Khu vực miền núi phía Bắc (02 phiên buổi sáng, với 12 tham luận) và Khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên (02 phiên buổi chiều, với 10 tham luận). Đến dự và tham gia khai mạc, chủ trì Hội thảo có đại diện lãnh đạo Nhà trường, Công đoàn Trường, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam, các Giáo sư, nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu trong và ngoài Trường Đại học KHXH&NV, cùng đông đảo các học giả, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên.
PGS.TS Trần Thị Minh Hòa, Phó Hiệu trưởng Nhà trường, phát biểu khai mạc
Trong công trình nghiên cứu đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ Lịch sử và Văn hóa Việt Nam Tiếp cận bộ phận (2007, 2012), Cố Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê (1934-2018) đã tổng kết và đề xuất nguyên lý Đa tuyến, Toàn diện và Toàn bộ của lịch sử và văn hóa Việt Nam, đặc biệt là các thời kỳ Cổ đại và Trung đại. Theo đó, “lịch sử Việt Nam được nhận thức là lịch sử của các cộng đồng quốc gia, cộng đồng cư dân, tộc người đã từng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay và đã từng góp phần vào tiến trình lịch sử Việt Nam, vào quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam, quá trình sáng tạo và bảo tồn nền văn hóa Việt Nam”. Trong gần nửa thế kỷ qua, Sử học Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn Sử học thời kỳ Đổi mới và Hội nhập quốc tế từ những năm 1990 trở lại đây, đã từng bước hiện thực hóa được nguyên lý này, nhất là bổ sung được các dòng chảy lịch sử Sa Huỳnh - Lâm Ấp - Chămpa ở miền Trung và Đồng Nai - Óc Eo - Phù Nam ở miền Nam, để lịch sử Việt Nam không còn đơn tuyến, thiếu hoàn thiện. Tuy vậy, một không gian lịch sử, văn hóa rộng lớn là các vùng cao, miền núi tại Việt Nam đã và đang được trình bày khiêm tốn trong tổng thể các câu chuyện, các thời kỳ của lịch sử Việt Nam.
Đại diện Ban Tổ chức và các đại biểu chụp ảnh lưu niệm khai mạc hội thảo
Lãnh thổ Việt Nam ngày nay có địa hình đồi núi chiếm khoảng ¾ diện tích, cấu tạo theo hai hướng chính: Tây Bắc - Đông Nam như dãy núi Hoàng Liên Sơn và các núi thuộc Trường Sơn Bắc; hướng vòng cung như các dãy núi Đông Triều, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Sông Gâm quy tụ về Tam Đảo. Đặc biệt là các núi hướng Bắc - Nam và Đông Bắc - Tây Nam thuộc dãy Trường Sơn Nam, tạo nên một không gian lịch sử văn hóa cổ sơ, huyền bí Tây Nguyên trong quá khứ. Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, phần lớn các người thiểu số sinh sống và định hình bản sắc văn hóa của mình trên các vùng đất cao, từ các triền đồi, miền trung du đến các sườn và đỉnh núi. Các cộng đồng cư dân, các nền văn hóa vùng cao Tây Bắc, Đông Bắc, Trường Sơn - Tây Nguyên đã hội nhập, đóng góp vào việc hình thành dân tộc Việt Nam, bảo tồn các dấu ấn văn hóa bản địa Việt Nam, góp phần không nhỏ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Lịch sử vùng cao Việt Nam, một lịch sử của các tộc người không có hoặc có rất ít chữ viết, dẫu vậy, cần được xem xét bổ sung và định đặt vị trí trong dòng chảy lịch sử Việt Nam - một lịch sử Đa tuyến và Toàn bộ.
TS. Đỗ Thị Thùy Lan (Khoa Lịch sử) trình bày báo cáo đề dẫn hội thảo
Quang cảnh Hội thảo vào Phiên 1 (Khu vực miền núi phía Bắc 1), sáng 30/12/2020
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là một trong những đơn vị đi đầu trong nghiên cứu về vùng cao Việt Nam, như với các thành tựu khoa học về Tây Sơn Thượng đạo từ ngay sau Giải phóng 1975. Trong những năm 2009-2010, Bộ môn Nhân học (tiền thân là Bộ môn Dân tộc học, thuộc Khoa), theo xu hướng chung của học thuật quốc tế, tách ra thành đơn vị độc lập trực thuộc Nhà trường. Các chủ đề khoa học về tộc người thiểu số, về khu vực miền núi, do đó, trở thành khoảng trống đối với Sử học Việt Nam. Hơn thế, trong xu hướng đa ngành, liên ngành hiện nay, từ bệ đỡ là Sử học, hay lấy Sử học làm bản vị, việc mời gọi, tập hợp các chuyên gia đến từ các lĩnh vực Nhân học, Khảo cổ học, Văn hóa học, Văn học, Hán Nôm học, Ngôn ngữ học, Chính trị học… để xây đắp tri thức về cùng một chủ đề chung là rất cần thiết và hoàn toàn khả thi. Trong khi đó, trên thế giới và trong nước gần đây, không ít các nhà nghiên cứu đã và đang quan tâm, có những thành tựu khoa học về vùng cao Việt Nam, như Oscar Salemink, John Kremers Whitmore, James A. Anderson, Andrew Hardy, Philippe Le Failler, Johann Grémont, Momoki Shiro, Trịnh Sinh, Trình Năng Chung, Trần Anh Dũng, Nguyễn Tiến Đông… đến các học giả trẻ tuổi hơn như Catherine Churchman, Kathlene T. Baldanza, Bradley Camp Davis, Christian C. Lentz, William B. Noseworthy, Kazuki Yoshikawa…, cũng như những nhà khoa học trẻ Việt Nam được đào tạo bài bản trong và ngoài nước: Phạm Lê Huy, Vũ Đường Luân, Đặng Hồng Sơn, Nguyễn Văn Anh, Nguyễn Thị Hải, Nguyễn Mạnh Tiến, Hồ Thành Tâm, Nguyễn Đặng Anh Minh, Nguyễn Hữu Mạnh, Lư Thị Thanh Lê, Nguyễn Phương Liên… Trong vòng 03 năm trở lại đây, với nỗ lực và đam mê, các cán bộ giảng dạy trẻ của Khoa Lịch sử đã tổ chức một chuỗi các Seminar khoa học về chủ đề vùng cao như của Catherine Churchman cùng Đặng Hồng Sơn, Phạm Lê Huy (2017), James Anderson và Nguyễn Quang Ngọc, Đỗ Thùy Lan, Trần Anh Dũng (2019), Andrew Hardy cùng Đào Thế Đức, Hồ Thành Tâm, Đặng Hoài Giang (2020), Andrew Hardy và Nguyễn Quang Ngọc, Phan Phương Thảo (2020).
GS.TSKH Vũ Minh Giang & PGS.TS Vũ Văn Quân (Khoa Lich sử) chủ trì Phiên 1
Mặc dù thế, cho đến nay, vẫn chưa có một diễn đàn có tầm thế để các học giả, chuyên gia nghiên cứu được tập hợp và trao đổi tri thức học thuật, kinh nghiệm nghiên cứu, hình thành nên các nhóm làm việc, hướng đến các sản phẩm chung, phục vụ khoa học và thực tiễn.
GS.TS Nguyễn Văn Khánh & PGS.TS Phan Phương Thảo (Khoa Lịch sử) chủ trì Phiên 2 (Khu vực miền núi phía Bắc 2)
Với ý nghĩa đó, Hội thảo Khoa học Chuyên sâu “Nghiên cứu Vùng cao Việt Nam: Sử học và Tiếp cận Liên ngành” đã được Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, Khoa Lịch sử được giao làm đầu mối về mặt chuyên môn. Trong bối cảnh chưa đầy nửa cuối năm 2020 Covid-19, Hội thảo đã nhận được 22 tham luận khoa học của 23 nhà nghiên cứu có thể coi là trẻ và/hoặc trung niên tuổi nghề, đến từ các cơ quan khoa học chủ yếu tại Hà Nội là Khoa Lịch sử (Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN); Khoa Lịch sử (Đại học Sư phạm Hà Nội) với 03 báo cáo; các Khoa trong Trường Nhân văn là (Nhân học, Đông Phương học, Văn học, Việt Nam học); các Trường Đại học, Viện thành viên ĐHQGHN (Trường Đại học Việt Nhật, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển); các Viện nghiên cứu thuộc VASS (Viện Văn học, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Nghiên cứu Kinh thành); và đặc biệt là các tham luận đến từ cơ quan ngoài Hà Nội là Đại học Thái Nguyên và Tạp chí Văn hóa Nghệ An.
TS. Nguyễn Mạnh Tiến (Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) trình bày tham luận “Từ cá tính H'Mông đến hệ thống quyền lực miền núi”
22 tham luận, do vậy, là kết quả nghiên cứu từ nhiều ngành, chuyên ngành khác nhau của khoa học xã hội và nhân văn: Sử học (11 tham luận), Khảo cổ học (04), Nhân học (03, trong đó có 01 báo cáo thuộc cả Lịch sử và Nhân học Tôn giáo), Văn học (03), và Văn hóa học (01 tham luận).
GS.TS Nguyễn Văn Kim (Khoa Lịch sử) & PGS.TS Nguyễn Trường Giang (Khoa Nhân học) chủ trì Phiên 3 (Khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên 1)
Phần lớn các báo cáo tham luận đều là những nghiên cứu “ruột”, lâu năm của các tác giả, thể hiện tri thức học thuật chuyên gia. Những nội dung khoa học được trình bày, thảo luận phong phú về tôn giáo, chính trị, chính sách nhà nước, biên giới quốc phòng, hướng phát triển lãnh thổ, quyền lực địa phương, kinh tế khai khoáng, mạng lưới thương mại, quá trình tộc người, vấn đề di cư, và không gian văn hóa; trải dài từ khu vực miền núi phía Bắc (12 tham luận, trong đó có 01 báo cáo đi xa hơn về phía Tây của các Bắc và Trung Việt Nam) đến khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên (09 tham luận) và Tây hạ lưu Mekong (01 tham luận); xuyên suốt tiến trình thời gian từ cội nguồn tộc người đến đương đại, nhất là khoảng hơn một thiên niên kỷ trở lại đây (thế kỷ X-XXI). Trong hơn 1000 năm đó, từng không gian/tiểu vùng khác nhau, trong các giai đoạn sớm muộn và các bước khác nhau, đã gia nhập vào dân tộc - lãnh thổ Việt Nam, hoàn thiện một Việt Nam hiện đại trong khoảng thế kỷ XVIII-XIX-XX.
TS. Nguyễn Hữu Mạnh (Khoa Lịch sử) trình bày tham luận “Tây Nguyên trong lịch sử Vương quốc Champa qua tư liệu khảo cổ học”
Toát lên trong tất cả các báo cáo là một vùng cao Việt Nam năng động, chủ động, phong phú và kết nối:
ThS. NCS Vũ Thị Xuyến (Khoa VN học & Tiếng Việt) trình bày tham luận “Nhìn lại chính sách của Chúa Nguyễn đối với vùng núi Trung Kỳ thế kỷ XVI-XVIII”
Về mặt chính trị: đó là các thực thể/thiết chế hiện hữu bản địa từ khởi nguồn cho đến thời kỳ Cận đại, như hệ thống quyền lực miền núi không chỉ theo không gian mà còn theo độ cao địa hình, như chế độ thổ ti ở miền Bắc; như Chămpa Thượng, Thủy Xá, Hỏa Xá Gia Rai ở Tây Nguyên, như chế độ thủ lĩnh địa phương Bahnar ở Kon Tum cho đến tận cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Sự cố hữu của các chính thể miền ngược này đã là trọng tâm phát triển lãnh thổ, quyền lực và kinh tế của các Nhà nước quân chủ Lý - Trần - Lê - Nguyễn, là đối tác trung gian cho truyền bá tôn giáo, và dấu vết văn hóa - xã hội của các thực thể này đã và đang là mối quan tâm, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐHQGHN) & PGS.TS Phan Ngọc Huyền (Đại học Sư phạm Hà Nội) chủ trì Phiên 4 (Khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên 2)
Về mặt kinh tế: trái ngược với những nhận định truyền thống về một vùng cao lạc hậu, bị động và kém trù phú, các nghiên cứu về khai mỏ, mạng lưới thương mại từ dược liệu của người Dao đương đại ở phía Bắc, đến một hệ thống các mạng lưới trao đổi ven sông Miền Trung trong lịch sử ở Phương Nam, đều cho thấy một vùng cao kết nối và đóng vai trò đầu cầu quan trọng, thậm chí quyết định của toàn hệ mạng. Hơn thế nữa, khai khoáng ở miền núi còn rất có thể đã là động lực hơn là hệ quả của những biến đổi kinh tế - xã hội ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn Sơ kỳ Cận đại.
TS. Nguyễn Đặng Anh Minh (Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm KHXHVN & Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (CASE), Paris) trình bày tham luận “Liên minh với các thủ lĩnh địa phương trong việc thiết lập và phát triển miền truyền giáo Kon Tum (1850-1900)”
Về mặt văn hóa - xã hội: vùng cao không những là nơi lưu giữ những dấu ấn cổ sơ, bản địa như văn hóa cồng chiêng, như những đặc trưng văn hóa “lưỡng hợp” của người Ê-đê, mà còn cả những dấu tích vật chất của các chính thể từ miền xuôi như Chămpa ở Tây Nguyên, như những chùa tháp, bi ký, lò, bến Phật giáo ở cả Tây Bắc và Đông Bắc nước Đại Việt thời Lý - Trần (thế kỷ XI-XIV). Một câu hỏi đặt ra, đó là: sự hiện diện của những dấu tích vật chất đó có chỉ đơn thuần một chiều từ Nhà nước trung ương đồng bằng tác động lên, hay còn những chiều cạnh mang tính bản thể nào khác? Về mặt xã hội, các nghiên cứu về di cư qua huyền thoại, truyền thuyết trong lịch sử, về dịch chuyển xã hội và các làn sóng di dân thế kỷ XX-XXI cho thấy một vùng cao chuyển động, xuyên không gian, dưới tác động của chính sách Nhà nước và thậm chí đã biến đổi cấu trúc xã hội truyền thống trong vòng một thế kỷ nay.
TS. Hồ Thành Tâm (Khoa Lịch sử) trình bày tham luận “Các làn sóng di cư của người Kinh lên Tây Nguyên trong thế kỷ XX”
Chính vì vậy, một đóng góp lớn mà 22 báo cáo khoa học ngày hôm nay đã và sẽ thể hiện, đó là: Lịch sử vùng cao ở đây, không chỉ là một phép cộng cơ học vào trong các vấn đề, không gian rời rạc các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là trong đối sánh với vùng Trung châu (thư tịch cổ gọi “Trung Hạ”) là châu thổ Sông Hồng, hay dải đồng bằng thấp hạ lưu, duyên hải Miền Trung. Mà đó là vấn đề tiếp cận: một cái nhìn từ núi, từ miền thượng (bổ sung cho những phiến diện trong nhãn quan từ trung ương, vùng thấp), nhưng trong một mạng lưới kết nối các vùng miền đa dạng trong và thậm chí bên ngoài lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Đó là các vấn đề di cư xuyên biên giới, là một Chămpa Thượng/An Khê trung chuyển giữa Khmer và các cảng thị Nam Trung Bộ, là mạng lưới thương mại trong lịch sử cũng như đương đại, là kết nối biển - rừng trong tâm thức Ê-đê… Đặc biệt, có những nghiên cứu đã thực sự đắm mình trong tiếp cận từ vùng cao, như khai mỏ, thổ ti Cao Bằng, như quyền lực địa phương Bahnar và các tham luận khác.
PGS.TS Vũ Văn Quân (Trưởng Khoa Lịch sử) phát biểu tổng kết hội thảo
Đi vào miền đồi núi, thượng nguyên, một trong những luận điểm được đồng thời đặt ra gần đây, khiến các học giả tiếp tục suy ngẫm và tiến tới, đó là vai trò của các Thung lũng Vùng cao, là “Thế giới Động” của các bộ tộc nói tiếng Thái ở phía Bắc như đề xuất của John Whitmore và James Anderson, là thung lũng người Hrê Quảng Ngãi ở miền Trung trong nghiên cứu của Andrew Hardy, Nguyễn Tiến Đông và Đào Thế Đức. Tại Hội thảo, các nhà khoa học đề xuất về “Một cái nhìn từ Thung lũng” (A View from the Valleys)? Và hơn thế, nhiều báo cáo cho thấy, mặc dù khái niệm một vùng Zomia “vô chính phủ” ở Đông Nam Á lục địa của Willem van Schendel (2002), và đặc biệt của James C. Scott (2009), là một luận điểm lớn, mang tính khái quát và có sức ảnh hưởng; tuy thế, những mảnh nghiên cứu trường hợp ở miền cao Việt Nam lại cho thấy cần ngẫm lại thêm và/hoặc bổ sung cho lý thuyết quyến rũ này!
Các Giáo sư, nhà khoa học, các đại biểu chụp ảnh lưu niệm bế mạc hội thảo
Đây là lần đầu tiên có một cuộc thảo luận mang tính thổng thể về vùng cao, đặc biệt theo hướng tiếp cận liên ngành, kết hợp giữa khoa học Lịch sử với các ngành khác của khoa học xã hội và nhân văn. Sau hội thảo, các học giả sẽ xuất bản thành ấn phẩm khoa học chất lượng, cũng như hướng đến những hợp tác nghiên cứu, công bố quốc tế về cùng chủ đề trong tương lai.
Tác giả: Lan Thủy Tâm
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn