Ngôn ngữ
Văn hóa, giao lưu, tiếp xúc, hội nhập, tiếp biến văn hóa… là những vấn đề có tính toàn cầu hiện nay. Đối với Việt Nam, kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, văn hóa và các các vấn đề liên quan đến bảo tồn, phát triển văn hóa đã và đang trở thành chủ đề trọng tâm, được toàn xã hội, các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Tuy vậy, trên phương diện nghiên cứu, vẫn chưa thấy nhiều những khảo cứu hệ thống, chuyên sâu, cơ bản về từng chiều cạnh của sự tiếp biến, quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa.
Nhận thức rõ vai trò của văn hóa, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách về văn hóa đồng thời có nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy quá trình hội nhập văn hóa của đất nước ta trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Việt Nam ngày càng trở thành thành viên mật thiết, có trách nhiệm của cộng đồng thế giới đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hội nhập với thế giới là xu thế, yêu cầu khách quan của sự phát triển.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, việc quản lý văn hóa, bảo tồn các giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề có nhiều khó khăn. Các giá trị văn hóa truyền thống ngày nay cũng chịu nhiều thách thức trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, của xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa. Trước những khó khăn, thách thức đó yêu cầu các nhà lãnh đạo, những người làm công tác quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, phát triển văn hóa phải cùng nhau suy nghĩ để đề ra các chính sách, giải pháp phù hợp. Hơn bao giờ hết việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa lại được coi là một nhiệm vụ thiết yếu gắn với các yêu cầu, mục tiêu phát triển bền vững của đất nước như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước cũng luôn gắn liền với việc bảo vệ an ninh, bảo tồn bản sắc văn hóa, xây dựng con người Việt Nam giàu lý trí và tình cảm, thấm đậm chủ nghĩa nhân văn và tinh thần yêu nước.
Các vấn đề nêu ra trên đây là những mục tiêu cơ bản, nhiệm vụ cấp bách nhất hiện nay trong việc nghiên cứu tác động của quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa đến sự phát triển của Việt Nam. Trong khi đó, nhu cầu và trình độ thưởng thức văn hóa của các tầng lớp xã hội Việt Nam ngày càng cao nhưng khả năng thụ hưởng văn hóa giữa các bộ phận xã hội đang là một thách thức lớn đối với những người làm công tác quản lý văn hóa. Trong bối cảnh của một xã hội thông tin, hội nhập và toàn cầu hóa, việc đề ra các định hướng phát triển, đáp ứng khả năng, nhu cầu thụ hưởng văn hóa,... việc triển khai công tác nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm, của một số quốc gia khu vực và thế giới để từ đó có được nhận thức đúng đắn, chính sách quản lý, phát triển văn hóa phù hợp luôn là một yêu cầu bức thiết.
Bìa cuốn sách "Tiếp biến và hội nhập văn hoá ở Việt Nam" do GS.TS Nguyễn Văn Kim chủ biên (Nxb. ĐHQGHN, 2016, 535 trang)
Công trình nghiên cứu “Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam” tập trung nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ những nội dung chính: Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý thuyết, lý luận về tiếp biến và hội nhập văn hóa; Thứ hai, phân tích các bước chuyển lịch sử, cơ sở, cách thức ứng đối và quá trình tiếp biến, hội nhập văn hóa trong lịch sử Việt Nam; Thứ ba, đánh giá thực trạng tiếp biến và hội nhập văn hóa đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay; Thứ tư, đề xuất phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Có thể khái quá thành những vấn đề lớn mang tính chất khuyến nghị sau:
Thực tế phát triển của các quốc gia trên thế giới và của Việt Nam cho thấy, không thể đạt được các mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững nếu không thực sự quan tâm đến văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Do vậy, để đạt được các mục tiêu phát triển, cần phải có những chính sách, cơ chế quản lý phù hợp để phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, coi trọng yếu tố con người, yếu tố văn hóa trong một tổng hệ.
Thế giới đang có những chuyển động lớn. Về văn hóa cần phải hướng đến những nhận thức mới, phải hiểu đúng, đánh giá đúng xu thế phát triển, vai trò, chức năng, sứ mệnh của văn hóa đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Văn hóa đang hướng đến đối thoại, giao lưu, tăng cường sức mạnh quốc gia. Với những chức năng sáng tạo, điều tiết xã hội của văn hóa, cần nỗ lực phát huy sức mạnh của văn hóa trong các hoạt động chính trị, giao lưu kinh tế và hợp tác quốc tế.
Trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, cần coi việc bảo vệ lợi ích dân tộc về văn hoá là một bộ phận hợp thành của lợi ích quốc gia (state’s interest). Phải coi việc bảo vệ lợi ích quốc gia về chính trị, an ninh, kinh tế với lợi ích quốc gia về văn hóa trong lợi ích tổng thể của đất nước. Theo đó, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vị thế văn hoá dân tộc trong cộng đồng văn hóa thế giới phải được coi là một nhiệm vụ có ý nghĩa trọng yếu.
Mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người đã được nhận thức ngày một sâu sắc trong tư duy phát triển của Việt Nam. Để phát triển, điều trước tiên là phải xây dựng chiến lược con người. Con người là trung tâm, động lực, nhân tố quyết định cho sự bảo tồn, truyền bá và sáng tạo văn hóa. Phát triển văn hóa nhằm đến nhiều mục tiêu nhưng mục tiêu chủ yếu là vì sự hoàn thiện nhân cách con người. Việc xây dựng thành công những mẫu hình con người mới, có tri thức, sáng tạo, tình cảm, nhân cách, lối sống đẹp là nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa.
Cốt lõi của hệ giá trị văn hóa Việt Nam là con người và cốt lõi của giá trị con người Việt Nam là nhân cách văn hóa. Vì thế, cần có chiến lược và hệ giải pháp thiết thực, khả thi để xây dựng con người, phát huy nhân cách con người Việt Nam trong xã hội hiện đại. Đó phải được coi là mối quan tâm hàng đầu, mục tiêu cốt yếu của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong thời gian tới. Định hướng cho chiến lược văn hóa và tiếp biến văn hóa là đề ra những đường hướng chính tiếp cận tới các mục tiêu có giá trị lâu dài mà Việt Nam vươn tới trong chiến lược văn hóa, giáo dục là đào luyện nên những con người có năng lực, phẩm chất, tư duy của công dân toàn cầu.
Những năm qua, Việt Nam đã xác định lộ trình và thực hiện những giải pháp căn bản cho quá trình phát triển văn hóa đó là: Hội nhập để tiếp biến và tiếp biến để tiếp tục hội nhập ở một mức độ cao hơn. Khởi đầu là đổi mới tư duy, từ bỏ chủ nghĩa biệt lập, tiếp đến là các bước giao lưu, hợp tác quốc tế, rồi hội nhập quốc tế. Theo đó, hội nhập kinh tế là bước đi đầu tiên, sau đó đến hội nhập văn hóa và hiện nay đang chuẩn bị cho việc hội nhập chính trị trên cơ sở chuẩn bị luận cứ và các giải pháp khả thi để đổi mới hệ thống chính trị, hướng tới xây dựng một nhà nước văn minh, hiện đại. Kinh nghiệm lịch sử về tiếp biến thì hội nhập, phát triển là tiền đề, điều kiện cho một sự đổi mới thực chất, dẫn đến chuyển đổi mô hình, cấu trúc văn hóa.
Trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, văn hóa dân tộc đã và đang trở thành một nguồn tài nguyên quốc gia quan trọng. Sức mạnh và tiềm năng văn hóa cần được phát huy và chuyển hóa thành “sức mạnh mềm” nhằm nâng cao vị thế quốc gia. Từ chỗ coi trọng, tập trung vào việc phát triển kinh tế, càng ngày người ta càng nhận thức rõ văn hóa chính là nền tảng cốt yếu của xã hội, là động lực cho sự phát triển bền vững và các mục tiêu an sinh của đất nước. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, văn hóa không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất cho xã hội nên văn hóa là lĩnh vực ít liên quan tới quốc kế dân sinh. Họ coi những người làm công tác văn hóa, nghệ thuật là thuộc về phạm trù “kiến trúc thượng tầng” mà không liên quan nhiều đến các hoạt động tạo nên nguồn của cải nuôi sống xã hội. Văn hóa là nhân tố định dạng đồng thời là tiêu chí quan trọng để đo thang bậc phát triển của các dân tộc. Văn hóa có chức năng kết tụ, lan tỏa và nhân lên sức mạnh của một dân tộc.
Trước những yêu cầu phát triển mới của đất nước, vai trò và sứ mệnh của văn hóa ngày càng được nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn. Sau 6 năm thực hiện NQTƯ 5 khóa VIII (1998), đến Hội nghị TƯ 9 khóa XI (2014) cùng với việc tiếp tục khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững của đất nước, văn hóa đã được xác định rõ vai trò và được đặt lên ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa đã được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Như vậy, văn hóa đã trở thành một trong ba trụ cột chính trong sự phát triển của Việt Nam, nằm trong ưu tiên phát triển của thời kỳ công nghiệp hóa và vì sự thành công của sự nghệp đổi mới, hội nhập quốc tế.
Trải qua 3 thập niên đổi mới, nhận thức về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế ngày càng hoàn thiện. Hai lĩnh vực kinh tế, văn hóa không chỉ được nhấn mạnh ở việc thực hiện chức năng chuyên biệt mà còn trở thành những nhân tố cùng đồng thời thúc đẩy sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển công nghiệp văn hóa và các dịch vụ văn hóa, hoạt động thể thao, du lịch. Văn hóa đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Đứng trước những yêu cầu phát triển mới, để hướng tới xây dựng Nền kinh tế tri thức (Knowledge - based economy) trước hết Việt Nam cần tập trung nguồn lực để xây dựng Nền kinh tế văn hoá (Cultural economy) mà trọng tâm là ngành Công nghiệp văn hóa (Cultural industry). Đó là bước chuẩn bị quan trọng để hướng tới phát triển Nền kinh tế tri thức giàu đậm hàm lượng trí tuệ và chất nhân văn. Để xây dựng và phát triển văn hóa, Việt Nam cần thực sự coi văn hóa là động lực, nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững; cần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của Công nghiệp văn hóa, là ngành có mối liên hệ chặt chẽ với Công nghiệp sáng tạo (Creative industry) trong xã hội hiện đại.
Để phát triển văn hóa, thời gian qua, các cơ quan quản lý văn hóa đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài thực hiện các hình thức liên doanh, liên kết để tổ chức các hoạt động văn hóa, đổi mới công nghệ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Ngành văn hóa cần có cơ chế năng động hơn nữa để khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào văn hóa, thu hút các nguồn lực, đào tạo tài năng. Việt Nam đã và đang chú trọng phát triển các sản phẩm văn hóa mới, tiên tiến, sáng tạo trên cơ sở phát triển công nghiệp văn hóa. Nếu có chính sách, đầu tư đúng hướng, nhiều khả năng trong tương lai, văn hóa Việt Nam sẽ có những ảnh hưởng rộng về không gian, sâu về mức độ, đa dạng về phạm vi để có thể tạo nên những hiện tượng như “Việt lưu” ở một số quốc gia khu vực.
Những người làm công tác quản lý văn hóa đang hướng đến một tư duy mang tính khai mở nhằm xây dựng một Thị trường văn hóa nhân văn, hiện đại trên cơ sở phát triển chuỗi các sản phẩm của Công nghiệp văn hóa. Trong quá trình phát huy thế mạnh của Thị trường văn hóa và Công nghiệp văn hóa cũng cần sớm tính đến việc xây dựng một Nền văn minh thương nghiệp (thương đạo) và Văn hóa doanh nhân. Ở đó, triết lý kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, tính trung thực, tư tưởng nhân văn và văn hóa kinh doanh được coi trọng, tôn vinh. Đội ngũ doanh nhân cần trở thành các Doanh nhân văn hóa, một lực lượng đông đảo, mạnh mẽ trong việc thực hiện Chiến lược ngoại giao nhân dân và trong việc đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và xã hội. Ngày nay, người ta đặc biệt quan tâm đến đặc tính văn hóa, hàm lượng tri thức trong các sản phẩm tiêu dùng. Có thể coi các doanh nhân là một trong những Lực lượng văn hóa và chính lực lượng văn hóa này sẽ tạo nên sức sản xuất văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của một quốc gia.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế trung bình và thấp thường gặp nhiều khó khăn trong phát triển, quản bá di sản văn hóa. Trong tư duy chiến lược, giữa việc bảo vệ lợi ích quốc gia về chính trị, an ninh, kinh tế với lợi ích quốc gia về văn hóa và coi đó như một bộ phận hợp thành trong lợi ích tổng thể của đất nước. Theo đó, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng văn hóa thế giới phải được coi là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa sống còn.
Trong thời đại toàn cầu hóa, sự phát triển của mỗi nền văn hóa luôn chịu nhiều tác động của đời sống chính trị, văn hóa thế giới. Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam cho rằng, đất nước ta đang đứng trước những cơ hội lớn về văn hóa đối ngoại. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng trên toàn thế giới. Trên lĩnh vực văn hóa, quá trình toàn cầu hóa diễn ra sôi động với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông đại chúng và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp sáng tạo.
Hiện nay, “sức mạnh mềm”, “quyền lực mềm” đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia cũng như để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Cũng vì vậy, việc gia tăng “sức mạnh mềm” đang được nhiều nước coi là trọng tâm trong chiến lược phát triển. “Sức mạnh mềm” còn được thể hiện ở sức hấp dẫn, lan tỏa từ các giá trị văn hóa của quốc gia đó. Với chiều sâu, bản lĩnh được tôi rèn qua những biến thiên của lịch sử, cần phải coi hệ giá trị văn hóa Việt Nam là nguồn sức mạnh, có sức hội tụ và điều chỉnh, có thể tăng cường lực hội tụ và lực hướng tâm dân tộc và trên hết là hệ giá trị văn hóa Việt Nam có công năng lớn mạnh trong việc dẫn dắt xu thế phát triển của xã hội.
Nhờ có tư duy đổi mới, quan hệ rộng mở và luôn hướng đến các mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến mà thời gian qua, văn hóa Việt Nam đã có nhiều tìm tòi về nội dung phản ánh, thể nghiệm nhiều phương thức, hình thức diễn đạt mới làm phong phú các thể loại và sản phẩm nghệ thuật. Các di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới của Việt Nam được UNESCO công nhận đã nâng tầm tiềm năng, giá trị văn hóa của Việt Nam trong làng văn hóa thế giới, tăng tính hấp dẫn, làm phong phú thêm bức tranh đa sắc, những giá trị tảng nền, chiều sâu của văn hóa Việt Nam cùng những đóng góp, giá trị độc đáo của di sản thiên nhiên, con người và văn hóa Việt Nam.
Trong sự phát triển của Việt Nam hiện hay, văn hóa không chỉ đồng hành với phát triển chung của dân tộc mà trên nhiều phương diện văn hóa phải giữ vai trò tiên phong trong sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, phải giữ gìn, phát huy được bản sắc văn hóa, tiếp tục khẳng định và làm giàu thêm vốn tri thức, tư duy sáng tạo cho văn hóa dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thách thức đặt ra là, nếu không đạt được tốc độ phát triển chung so với các quốc gia khu vực thì Việt Nam sẽ tụt hậu, chậm bước không chỉ trên lĩnh vực văn hóa.
Văn hóa toàn cầu ngày nay, nhất là trong các nước phát triển trình độ cao, đã có những tiến bộ vượt bậc về khoa học tự nhiên, công nghệ, kỹ thuật và khoa học xã hội. Thời gian qua, nhiều quốc gia trên thế giới đã quyết tâm loại bỏ nền kinh tế khai thác và những công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, gây nên tình trạng ô nhiễm… để chuyển sang nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Bốn trụ cột về khoa học và công nghệ là khoa học về sự sống, khoa học vật liệu mới, khoa học về năng lượng và khoa học về quản lý kết hợp với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của khoa học điện tử viễn thông, công nghệ thông tin, tất cả đã tạo nên nhân tố kích hoạt cho sự hình thành xã hội kinh tế tri thức và xã hội thông tin của thế giới hiện đại.
Công tác quản lý văn hóa luôn có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa của một đất nước. Nếu có cơ chế quản lý, định hướng và chính sách văn hóa đúng, tiến bộ, khoa học chắc chắn sẽ tạo đà cho sự phát triển của các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đồng thời tạo nên niềm hứng khởi, say mê, tinh thần tự nguyện cống hiến cho sự phát triển của văn hóa đất nước.
Thực tế cho thấy, nhận thức về văn hóa cũng như nhận thức của con người về các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác thường diễn ra theo một quy trình 3 giai đoạn: a) Lý luận phản ánh thực tiễn, nhưng chưa trở thành hiện thực; b) Lý luận trở thành hiện thực trong đời sống thực tiễn; và c) Lý luận vẫn còn là hiện thực nhưng không còn phản ánh thực tiễn nữa. Lúc đó lại xuất hiện những nhu cầu mới sẽ được phản ánh trong một lý luận mới. Đó chính là quy luật vận động theo quán tính của nhận thức con người.
Trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự hình thành và phát triển của văn hóa kinh tế, văn hóa ngoại giao, văn hóa giao tiếp, kinh doanh thì văn hóa chính trị cũng được coi như một ngành khoa học đích thực. Vì thế, trong khi nói đến việc quản lý văn hóa, cần nghiên cứu để xây dựng được văn hóa quản lý không chỉ cho ngành văn hóa mà còn cho các lĩnh vực khác của đất nước.
Công tác quản lý văn hóa đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Đời sống vật chất và tinh thần của con người Việt Nam ở nhiều vùng núi cao, hải đảo xa xôi bước đầu được cải thiện nhờ sự phát triển của hệ thống giao thông, các dự án điện quốc gia và sự lan tỏa mau chóng của hệ thống công nghệ, truyền thông đại chúng. Với một cách nhìn khác, chính nhu cầu giao tiếp, thụ hưởng văn hóa của thời đại toàn cầu hóa mà văn hóa đã trở thành nhân tố kích hoạt cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh doanh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hạn chế lớn nhất của sự nghiệp xây dựng và quản lý văn hóa Việt Nam trong thời gian qua là chưa có cơ chế phối hợp cấp quốc gia để tổ chức các kế hoạch, hoạt động văn hóa lớn và bố trí nguồn lực đầu tư thỏa đáng cho sự nghiệp phát triển, quảng bá giá trị văn hóa. Việt Nam vẫn còn thiếu một đội ngũ những người làm công tác quản lý, cán bộ văn hóa có trình độ cao, chuyên nghiệp để triển khai nhiệm vụ trong các chiến lược văn hóa, nhất là Chiến lược văn hóa đối ngoại. Việc thiếu những nghiên cứu dự báo, thiếu quy hoạch theo phát triển định hướng, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý văn hóa, đội ngũ chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực văn hóa; tạo môi trường, điều kiện cho sự sáng tạo văn hóa cùng nhiều tác động xã hội khác đã dẫn đến tình trạng suy thoái về văn hóa và đạo đức, lối sống.
Nhận thức rõ hạn chế đó, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hóa, đề cao vai trò của các thiết chế văn hóa, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng với những phương thức hoạt động mới, hiệu quả. Văn hóa không chỉ có ý nghĩa định hướng mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước.
Sự nghiệp phát triển văn hóa cũng cần coi trọng vai trò sáng tạo văn hóa của các cá nhân, quyền bảo đảm những giá trị sáng tạo văn hóa cá nhân. Chính sách văn hóa của Việt Nam hướng đến việc bảo tồn, phát huy các giá trị, di sản truyền thống, sự hình thành các nhóm sáng tạo, sáng tác, trào lưu văn hóa mới đặc biệt là những trào lưu phát triển văn hóa trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc đồng thời thể hiện tư tưởng tích cực chủ động, hội nhập.
Tác giả: Mạnh Nguyễn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn