Chính phủ vừa có Quyết định phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng từ nay tới 2020, một trong những quan điểm quy hoạch là phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phải phù hợp với chiến lược phát triển và điều kiện kinh tế – xã hội, tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước, gắn với từng vùng, từng địa phương.
Lọt vào tốp 200 trường đại học được xếp hạng thế giới?
Theo bản Quy hoạch này, mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 đạt khoảng 256 sinh viên/1 vạn dân; khoảng 70% – 80% sinh viên ĐH được đào tạo theo các chương trình nghề nghiệp – ứng dụng và khoảng 30% – 20% sinh viên được đào tạo theo các chương trình nghiên cứu;
Đến năm 2020 đạt bình quân từ 17 đến 26 sinh viên đại học và cao đẳng/1 giảng viên; số giảng viên có trình độ tiến sĩ trong tổng số giảng viên đại học khoảng 21% và số giảng viên có trình độ tiến sĩ trong tổng số giảng viên cao đẳng dự kiến đạt khoảng 4%.
Theo đó, sau năm 2020 diện tích đất đai và diện tích xây dựng của các trường đạt chuẩn định mức quy định về diện tích tính bình quân trên 1 sinh viên; hình thành các khu đại học dành cho các trường đại học nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Năm 2020 bảo đảm đủ giáo trình, tài liệu dành cho sinh viên theo quy định đối với các môn học, ngành học.
Theo bản Quy hoạch do Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân kí nêu rõ, đến năm 2015 có 10 trường đại học mà mỗi trường có ít nhất 1 khoa (ngành) hoặc lĩnh vực đào tạo đạt tiêu chí chất lượng tương đương so với các trường có uy tín trên thế giới; đến năm 2020 có 20 trường đại học đạt tiêu chí nêu trên và năm 2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới;
ĐHQG TP Hồ Chí Minh và ĐHQGHN sẽ được đầu tư mạnh để trở thành các trường nghiên cứu hàng đầu tại Việt Nam và khu vực.
Thu hút đạt tỉ lệ trên 1% vào năm 2015 và 3% vào năm 2020 số lượng sinh viên là người nước ngoài so với tổng số sinh viên cả nước đến học tập, nghiên cứu tại Việt Nam.
Cụ thể, trong nội dung Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đến năm 2020 của Chính phủ, thì tổng quy mô đào tạo đại học và cao đẳng đạt khoảng 2.200.000 sinh viên (tăng khoảng 1,8% so với năm học 2010 – 2011) và số sinh viên chính quy tuyển mới đạt khoảng 560.000 (tăng khoảng 8,2% so với năm 2010).
Đến năm 2020 cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng.
Tập trung vào quy mô đào tạo của hai Đại học Quốc gia
Chính phủ quy định, quy mô đào tạo của các trường đại học, cao đẳng được xác định trên cơ sở bảo đảm các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng chất lượng như: số lượng, chất lượng giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, phòng học, phòng thí nghiệm, thực hành, kí túc xá sinh viên, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đào tạo, quản lí nhà trường …, đồng thời được cân đối phù hợp với đặc điểm của các trường, ngành nghề đào tạo, bậc đào tạo và năng lực quản lí để bảo đảm chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao.
Theo đó, định hướng quy mô đào tạo (Số lượng sinh viên đã quy đổi theo hình thức đào tạo chính quy) của hai Đại học Quốc gia được giao như sau: Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: khoảng 42.000 sinh viên.
Ngoài ra, các trường đại học trọng điểm khác đến 2020 quy mô đào tạo khoảng 35.000 sinh viên. Các trường đại học, học viện đào tạo các ngành nghề kĩ thuật – công nghệ, kinh tế, luật, sư phạm và các lĩnh vực khác có gắn với kinh tế – kĩ thuật được phép khoảng 15.000 sinh viên quy đổi. Các trường đại học, học viện đào tạo các ngành nghề y tế, văn hoá – xã hội: Khoảng 8.000 sinh viên. Các trường đại học, học viện đào tạo các ngành năng khiếu: Khoảng 5.000 sinh viên.
Các trường cao đẳng đa ngành, đa cấp: Khoảng 8.000 sinh viên. Các trường cao đẳng đào tạo theo lĩnh vực công nghệ và trường cao đẳng cộng đồng: Khoảng 5.000 sinh viên. Các trường cao đẳng đào tạo các ngành năng khiếu: Khoảng 3.000 sinh viên.
Ngành nghề đào tạo cũng được Chính phủ xác định tập trung vào những ngành nghề ưu tiên như: Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn; công nghệ thông tin; công nghệ cơ điện tử và tự động hoá; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; một số ngành, nghề kĩ thuật và công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Xác định, đến năm 2020, số sinh viên khối ngành công nghiệp, giao thông và xây dựng chiếm khoảng 31%, khối ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn khoảng 14%, khối ngành sư phạm và quản lí giáo dục khoảng 10%, khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, kế toán, tài chính, ngân hàng, luật và trợ giúp xã hội khoảng 31%, khối ngành nông – lâm – ngư khoảng 5%, khối ngành y – dược khoảng 6% và khối ngành nghệ thuật, thể dục-thể thao khoảng 4% trong tổng số sinh viên đào tạo.
Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng ở các vùng cũng được phân bố hợp lí hơn. Cụ thể, vùng trung du và miền núi phía Bắc: Đến năm 2020 dự kiến có 57 trường, bao gồm 15 trường đại học và 42 trường cao đẳng. Vùng đồng bằng sông Hồng: Đến năm 2020 dự kiến có 157 trường, bao gồm 91 trường đại học và 66 trường cao đẳng.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung: Đến năm 2020 dự kiến có 88 trường, bao gồm 38 trường đại học và 50 trường cao đẳng. Vùng Tây Nguyên: Đến năm 2020 dự kiến có 15 trường, bao gồm 5 trường đại học và 10 trường cao đẳng. Vùng Đông Nam Bộ: Đến năm 2020 dự kiến có 93 trường, bao gồm 55 trường đại học và 38 trường cao đẳn. Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Đến năm 2020 dự kiến có 50 trường, bao gồm 20 trường đại học và 30 trường cao đẳng.
Về phân bố sinh viên, mạng lưới trường theo 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam. Trong đó miền Bắc chiếm 40% tổng quy mô sinh viên của cả nước. Miền Trung chiếm 15% và miền Nam chiếm 24% vào năm 2020.
Quy hoạch này được thực hiện ở 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ năm 2011-2015, trong đó tập trung vào nhiệm vụ củng cố, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo; giữ ổn định quy mô đào tạo và số lượng sinh viên chính quy tuyển mới; giảm quy mô đào tạo và số lượng sinh viên chính quy tuyển mới hàng năm của các trường không đủ điều kiện đảm bảo chất lượng.
Giai đoạn 2 từ 2016-2020 tập trung tăng quy mô đào tạo hàng năm bình quân khoảng 0,3%/năm và tăng số sinh viên chính quy tuyển mới hàng năm bình quân khoảng 1,5%/năm.
Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 9 năm 2013.