Tin tức

Nhớ Ca Lê Hiến !

Thứ tư - 26/07/2017 22:02
Từ một cậu bé sớm giác ngộ cách mạng, Ca Lê Hiến tham gia kháng chiến khi còn ở tuổi 12 và theo cơ quan tập kết ra Miền Bắc lúc 14 tuổi. Được nhà nước nuôi ăn học, sau khi tốt nghiệp phổ thông thi đổ vào đại học, tốt nghiệp hạng ưu, Ca Lê Hiến được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, sau đó được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Nhưng em đã từ chối và xin được vào Nam tham gia chiến đấu.
Nhớ Ca Lê Hiến !
Nhớ Ca Lê Hiến !

Ca Lê Hiến đã sống 10 năm trên một nửa nước độc lập tự do, trong khi quê hương Miền Nam ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn của em vẫn bị chia cắt và đang ngập chìm trong máu lửa. Sống và làm việc trên đất Bắc, gắn bó thương yêu Miền Bắc bao nhiêu thì Ca Lê Hiến cũng thương nhớ và xót xa với những nỗi khổ đau của đồng bào Miền Nam bấy nhiêu, tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với quê hương luôn thôi thúc, vẫy gọi em về:

Quê hương đang nước sôi lửa bỏng

Lẽ nào ta lại sống bình yên

Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng 

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng

Ta say nồng mùi lá rụng bờ tre”.

Cuộc sống ngày Bắc đêm Nam đã được giải tỏa khi theo lời kêu gọi của Đảng, Ca Lê Hiến đã đi đến một quyết định có thể nói là trọng đại trong cuộc đời: em từ chối việc được cử đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài và làm đơn đề đạt với tổ chức xin được lên đường về Nam. Với quyết định này, em chấp nhận chia tay với tất thảy những gì thân thiết nhất: cha mẹ, anh em bạn bè, thầy cô, kể cả người vợ chưa cưới thân yêu của em, người mà bóng hình được em giữ mãi trong tim suốt các năm dài.

Nhà thơ Lê Anh Xuân, tên thật là Ca Lê Hiến (1940-1968). Ông là sinh viên, rồi là cán bộ giảng dạy tại Khoa LỊch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội

Đây là đoạn ghi nguyện vọng mà Hiến đã gửi lên đề đạt với tổ chức, kiên quyết và thiết tha được trở về Miền Nam tham gia chiến đấu: “Nguyn vng và quyết tâm ca tôi là đưc v Nam b tham gia kháng chiến cùng bà con quê hương trong y. Hin nay chuyên môn ca tôi là ging dy môn Lch s thế gii c đi Tng Đi hc Tng hp, nhưng v min Nam tôi có th ging dy các môn khoa hc xã hi c Văn, S... Ngoài chuyên môn ra tôi có kh năng tham gia công tác báo chí hoc sáng tác thơ. Ngoài công tác giáo dc tôi rt mun đưc tham gia công tác v văn hc ngh thut min Nam. Tôi có th đi đến bt c nơi nào Đng cn đến. Nguyn vng và quyết tâm ca tôi là đưc v min Nam, v li quê hương tôi”. (T 25-H sơ 1429-U ban Thng nht Chính ph-Trung tâm lưu tr Quc gia III).

Trong lý lịch cán bộ, phần kê khai về gia đình, Ca Lê Hiến còn ghi rõ: Tôi có v chưa cưới tên là Bùi Xuân Lan hin đang hc năm th ba Hc vin Kinh tài Thượng Hi (Trung Quc).

Với tất cả sự nổ lực và quyết tâm ấy, đề nghị của em đã được tổ chức chấp thuận. Sau một thời gian khổ luyện hành quân trên đất Phú Thọ, ngày 22/12/1964, Hiến lên đường đi “B” với cái tên mới là Lê Lan Xuân, ghép chữ  Lê Hiến và Xuân lan - đảo ngược thành Lan Xuân; sau này vào chiến trường em lấy bút danh là Lê Anh Xuân. Riêng bút danh này tôi đoán có lẽ là chữ lót của tên 3 người: Lê của Lê Hiến, Anh của nhà văn Anh Đức - là anh ruột của Xuân Lan và là người đã nâng bước em trên con đường văn học nghệ thuật từ những ngày đầu và được em hết sức quí trọng, còn Xuân thì chắc chắn là của Xuân Lan rồi.

Đường hành quân vào Nam là thử thách đầu tiên đối với Ca Lê Hiến. Nếu như ngày nay, đi Hà Nội – TP.HCM bằng đường hàng không ta chỉ mất có 1 giờ 45 phút, còn đi bằng xe hơi thì cũng chỉ mất 2 ngày 2 đêm, thì hồi ấy cuộc vượt Trường Sơn phải kéo dài trong 3 tháng, hành quân vác nặng, trèo đèo lội suối, cơm vắt lá rừng, hiểm nguy chết chóc luôn cận kề. Với vóc dáng thư sinh, chân lại bị tê thấp, lòng bàn chân nứt nẻ, nhưng Ca Lê Hiến quyết chí đi đến cùng vì miền Nam ruột thịt, đi với “tinh thần anh Trỗi” như Ca Lê Hiến sau này từng kể lại với chị Quyên:

“...Ngay từ lúc còn ở trên Miền Bắc tôi đã đắm đuối nhìn tấm ảnh của anh Trổi in trên báo với tất cả lòng thương yêu và kính phục, tấm gương anh Trỗi làm tôi hết sức xúc động. Một tháng sau tôi làm một cuộc hành quân dài 3 tháng trường đi suốt từ Bắc vào Nam. Chính tôi đã đi với sức mạnh của anh Trỗi. Những lúc mệt quá, leo núi cao, hình ảnh của anh Trỗi đã tăng thêm sức mạnh cho tôi và tôi đã đi đến nơi!” (Văn nghệ một thời để nhớ - Bảo Định Giang).

Vừa đặt chân đến Nam bộ, Ca Lê Hiến đã hứng chịu một trận bom và càn quét kinh hoàng. Em đã kể lại chuyện này trong bức thư gửi nhà thơ Chế Lan Viên: “Ln đu tiên vào Nam b, em chu ngay mt trn bom và phi chy càn sut bốn năm ngày liền. Có nhng giếng bom sâu bng cái ao con, chính em trông thy nhng đàn trc thăng rà sát trên đu mà lúc ngoài y em c phi tưng tưng”.

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh  ( thứ 2 từ trái sang) chúc mừng Ca Lê Hiến (thứ 4 từ trái sang) trong Lễ trao giải cuộc thi thơ Tạp chí Văn nghệ, 1961 (Ảnh: TL)

Nhưng Ca Lê Hiến đã hòa nhập rất nhanh vào không khí sôi sục chiến đấu và bắt tay ngay vào công việc. Đó là việc tham dự và viết về Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua Miền Nam lần thứ nhất, với kết quả là sự ra đời của tập văn xuôi Gi đất nói về người Anh hùng quân đội Miền Nam – liệt sĩ Nguyễn Văn Tư. Gi đất là một trong hai tập văn xuôi hay nhất viết về Đại hội này, đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1966.

Cũng chính lần dự Đại hội này mà em đã ghi chép được biết bao câu chuyện về các anh hùng, chiến sĩ thi đua của lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam, làm tư liệu sống cho những bài thơ sáng tác sau này như: Gp nhng anh hùng, Không đâu như Min Nam, Chào các anh, nhng người chiến thng,“Ánh đuc, Anh đứng gia Tháp Mười, Qua p Bc ... Em cũng đã đúc kết được những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân trong đó có một điểm sáng chói là ý chí tiến công tuyệt vời mà em đã ghi lại trong nhật ký: Ch lc: Liên tc tn công vi tinh thn cách mng, đạp lên st thép, đạp lên đầu thù, đạp lên đầu địch tn công, hy sinh còn tn công, hy sinh vi tư thế tn công (Nhật ký Lê Anh Xuân- ngày 14/9/1967).

 Hồ sơ của nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) số 1429 - Hồ sơ cán bộ đi B, Phông Ủy ban Thống nhất Chính phủ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.

Và phải chăng cũng từ cảm nhận đó mà sau này, khi bắt gặp hình ảnh người chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Mao đã anh dũng hy sinh trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất vẫn với tư thế đang đứng bắn, em đã cảm xúc viết nên bài thơ bất tử Dáng đứng Vit Nam, ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của người chiến sĩ Giải phóng quân:

         ...Bi anh chết ri nhưng lòng dũng cm

           Vn đứng đàng hoàng n súng tiến công.

Những tháng ngày về thâm nhập thực tế chiến trường tại quê hương Bến Tre, em đã ngày đêm lặn lội đi khắp các xóm ấp để tìm hiều từng người thật, việc thật, cần mẫn ghi chép vào nhật ký hầu như không sót một điều gì mà em bắt gặp hoặc nghe thấy để chuẩn bị tư liệu cho các sáng tác của mình. Có thể kể một số bài: “Gửi anh Tư” (tức anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Tư), gởi lòng thương nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng chân đất; Cô gái đưa đò” ca ngợi gương dũng cảm và mưu trí của cô giao liên trên sông An Hóa, bất chấp hiểm nguy và mưu trí thay nhiều màu áo để kẻ địch không nhận biết được bóng dáng con người cô; “Lão du kích”, một điển hình về lão du kích nông dân miền Nam anh dũng và mưu trí dánh giặc; “Người mẹ trồng bông” sớm chiều yêu thương và âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ; “Qua cầu” tặng 12 cô gái Bến Tre đã lấy vai làm cầu đỡ cho bộ đội đi qua; “Cây chông tre” với hình ảnh cỏ cây cũng tham gia giết giặc; “Đuốc lá dừa” nói về một cô giáo dũng cảm, dám lao vào lửa bom na-pan cứu các em bé và hy sinh; “Cô xã đội” (Út Tiết), nghe ca nông còn bịt tai, nhưng đã tay không lấy bót giặc; “Bông trang đỏ” kể về một bà mẹ kiên trì anh dũng, mưu trí, nuôi giấu cán bộ, bị địch bắt đánh mù cả hai mắt vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu và đã hy sinh anh dũng; “Ánh lửa trên sông” nói về em giao liên tên Trì, đã anh dũng nhảy qua tàu địch, tự cho nổ bộc phá, làm cháy tàu và cháy cả thân mình... Đó đều là những con người bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.

Lê Anh Xuân (bên trái) và Anh Đức. Ảnh tư liệu

Trong thời gian gần 4 năm về tham gia chiến đấu ở miền Nam, Ca Lê Hiến đã sáng tác 37 bài thơ được in trong tập “Hoa Dừa” dày khoảng 100 trang, một bài “Trường ca Nguyễn Văn Trổi” với khoảng 1500 câu thơ và tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người anh hùng Nguyễn Văn Tư ở Bến Tre. Chính những sáng tác thơ, văn đã đưa em vào hàng ngũ những văn nghệ sĩ tên tuổi đương đại và đất nước cũng đã ghi công em bằng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Các bài thơ của em, càng đọc càng thấy thích đọc, người đọc không có cảm giác như đọc một bài thơ đã được làm sẵn, mà như nghe em đang tâm tình, khơi gợi, với giọng mê say trong trẻo, nhỏ nhẹ chân tình, rót sâu vào tâm tư tình cảm. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần những bài thơ Lê Anh Xuân viết khi trở về chiến đấu ở Miền Nam, nhất là trong thời gian ở Bến Tre, có những bài hầu như tôi đã thuộc lòng. Rất tiếc vì trang in có hạn không thể ghi lại tất cả để mọi người cùng đọc, cùng thưởng thức. Thôi thì cứ lấy ra mấy bài, tuy không phải là đặc sắc nhất, nhưng mỗi bài là một câu chuyện chứa chan tình cảm yêu thương:      

    Bông trang đỏ

Dừa Bến Tre bốn mùa xanh mát

Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều

 Hát rằng: Hỡi mẹ kính yêu

Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang.

 

Nhà mẹ đó một gian nhà nhỏ

           Mẹ cắm bông trang nhỏ mà thờ

           Phải chăng mẹ nhớ bóng cờ

           Các con tập kết bao giờ về đây?

 

           Trên bàn thờ khói bay hương tỏa

           Dưới bàn thờ ai có biết chăng?

           Mẹ nuôi cán bộ dưới hầm

            Mẹ nuôi hy vọng, mẹ mong có ngày...

 

Ôi quê hương đêm dài tang tóc

Lũ chó săn rình rập bên hè

Mà lòng bà mẹ Bến Tre

Là nơi cán bộ đi về sớm hôm.

 

Một tay mẹ nấu cơm, kho cá

Nuôi các con, nuôi cả phong trào

Có lần quân giặc ập vào

Mâm cơm vừa dọn, giấu đâu bây giờ?

 

Mẹ bình tỉnh giả đò thổi lửa

Rồi bưng mâm đặt giữa bàn thờ

Lâm râm mẹ khấn nhỏ to

Hương nhang thơm cả bàn thờ tổ tiên.

 

Lời mẹ khấn: nhắn tin con biết

Vừa cầu mong con được bình an

Lắng nghe lũ giặc xa dần

Bưng mâm nhìn các con ăn, mẹ cười.

 

 Đêm không ngủ, mẹ ngồi mẹ gác

Nghe tàu dừa xào xạc ngoài hiên

Giật mình đau nhói trong tim

Tưởng đâu quân giặc nửa đêm ập vào.

 

Đêm ấy...mưa đổ rào như thác

Chồng vừa đi công tác ghé về

Mẹ mừng mẹ khép cửa tre

Bỗng đâu súng giặc bốn bể nổ ran.

Ôi lòng mẹ ngổn ngang trăm mối!

Mười năm sau mẹ lại mất con

Xác con mẹ vớt bên cồn

Nửa đêm bó chiếu lén chôn sau nhà.

 

“Chồng tao chết oán thù chưa hết

           Nay con tao cũng chết, vì ai?

          Thù xưa lại đến thù nay

           Tây đi, Mỹ đến một bầy sói lang”.

         

Mẹ ngồi gác mịt mùng đêm tối

           Vết thương xưa đau nhói từng cơn

           Nhìn bông trang đỏ như son

           Nhớ con đã khuất, thương con bây giờ.

 

            Có các con mẹ như trẻ lại

            Nuôi các con – nuôi mãi niềm tin

            Mẹ ngồi gác giữa đêm đen

            Nghe gà gáy sáng, bốn bên rạng dần.

 

            Ôi mùa xuân, mùa xuân đồng khởi

            Tiếng mõ vang, lửa nổi xa, gần

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Rừng dừa lộng gió, Hàm Luông sóng gầm.

 

            Chúng con bật nắp hầm đứng dậy

            Bọn ác ôn run rẩy đầu hàng

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Thù xưa đã trả cho chồng, cho con.

 

            Nhưng mắt mẹ chẳng còn nhìn thấy

            Một bữa kia mẹ tới Mỏ Cày

            Tại thằng phản bội cung khai

            Quân thù bắt mẹ, mấy ngày khảo tra.

 

            Giặc đánh mẹ, mẹ la, mẹ chửi

            Phun bã trầu vào bọn ác ôn

            Không khai, mẹ cố chịu đòn

            Mắt già giặc đánh mấy hôm đã mù.

 

            Đêm Đồng khởi lòng già mừng quá

            Đánh mõ tre, đánh cả vào tay

            Mắt mù lòng mẹ vẫn say

            Tay đau chẳng nhớ, đêm dài chẳng quên.

 

            Con thương mẹ mắt nhìn đêm tối

            Khi bình minh mẹ đã mù rồi

            Mẹ ơi! Ánh mắt mặt trời

            Mặt sân dừa rụng biết bao oán hờn.

 

             Mẹ khuất rồi cỏ non xanh mộ

             Nước hố bom gợn sóng rừng dừa

             Mẹ nằm  năm tháng gió mưa

             Mà bông trang đỏ vẫn chưa phai màu.”

                                           12-1965

   Người mẹ trồng bông

  Tôi gặp mẹ ở nghĩa trang An Thới

   Tay nhẹ nhàng mẹ xới, mẹ vun

    Mẹ ngồi giữa những hàng cúc trắng

    Tóc mẹ và bông gió thổi rung.

 

    Chỗ mẹ ngồi xưa là nền bót

    Giặc bắn, giặc đâm xác chất thành cồn

    Đêm đêm cùng bà con trong ấp

    Mẹ vượt rào khiêng xác đem chôn.

 

     Những nấm mộ chôn thầm, chôn lén

      Không có bia, không một cành bông

      Nghĩa trang chính là lòng của mẹ

      Nơi anh hùng yên nghỉ có mùi hương.

 

      Hôm nay đồn giặc không còn nữa

      Trời thênh thang, đồng lúa chín vàng

       Mẹ ngồi giữa hàng bông rực rỡ

       Cỏ mùa xuân xanh mướt nghĩa trang.

 

Mẹ nhớ rõ tên từng ngôi mộ

Mộ Giải phóng quân cạnh Vệ quốc đoàn

Ôi các anh đã khuất rồi nằm đó

Mà vẫn thẳng hàng như một đoàn quân.

 

    Mẹ kể, đã mấy lần phản lực

    Mang đạn bom trút xuống nghĩa trang

    Mẹ cùng với bà con trong ấp

    Đã mấy lần dập lửa na-pan.

 

                 Và hôm nay chiều nghĩa trang rất đẹp

                Mộ anh hùng nắng dát vàng tươi

                Bông mẹ trồng không sợ gì sắt thép

                Đã vươn cao thơm mát cả da trời.

 

                 Bông mẹ trồng là lòng mẹ, mẹ ơi!

                                 11-1965

 Ánh lửa trên sông

                Hoàng hôn thuyền đậu bến sông

                Chờ khi đêm xuống vượt dòng Cổ Chiên

 

                 Em Trì, em nhỏ giao liên

                 Dáng trai  nhanh nhẹn, mắt đen hay cười

                 Em đang té nước nghịch chơi

                 Giật mình cá nhảy thơm mùi phù sa

                 Sáng chiều như có khói nhòa

                 Một vùng man mác bao la nước trời

                 Bần như rặng liễu xanh tươi

                 Bóng soi nước biếc, sóng dồi thiết tha

                 Hỏi em, em đã mất cha

                 Cha ra đánh Pháp thường qua sông này

                  Bây giờ đánh Mỹ con thay

                  Lại làm liên lạc ra  tay chống chèo

                  Mịn màng đêm xuống trong veo

                  Từng chùm đom đóm vàng treo trên cành

                  Ấy là lúc sóng réo quanh

                  Hiên ngang thuyền nhỏ băng mình trong đêm

                  Ấy là lúc trước mũi thuyền

                   Bóng em khắc đậm giữa nền trời sao

                   Vai em ướt đẵm sóng trào

                   Lặng im em vẫn dõi vào đêm khuya

                   Mắt em ngắm, tai em nghe

                   Từng cơn sóng cuộn, từng bè lá trôi

                   Ở đây tàu Mỹ ngược xuôi

                   Máu người còn đấy, xác người còn đây

                    Thù xưa cùng với thù nay

                    Nén trong thủ pháo hai tay em cầm

                    Thuyền đi máy vẫn rì rầm

                     Dịu dàng lòng trẻ vẫn thầm ước mong:

                   “Bình yên thuyền cập bến sông

                     Thì em mừng lắm, còn mừng nào hơn

                     Qua sông nguy hiểm chẳng sờn

                      Đạn bom em vượt, sóng cồn em qua”

                      Bỗng đâu một ánh đèn pha

                      Như thanh kiếm vụt chói lòa mắt em

                      Đạn tàu vây đỏ quanh thuyền

                      Tay cầm thủ pháo ngực em phập phồng

                       -“Dẫu em có chết giữa dòng

                       Mấy anh còn sống thì lòng em vui”

                       Tàu thù vừa ập đến nơi

                       Em Trì tôi đã ngang trời đứng lên

                       Giọng em vút ngọn sóng rền

                       Thanh thanh như tiếng chim chuyền cành xanh:

                        -“Bác Hồ ơi, cháu hy sinh!”

                        Nói rồi em vụt lao nhanh qua tàu

                        Sông bừng lửa đỏ, thuyền chao

                        Cổ Chiên dồn dã sóng gào không nguôi

                         Em trì hỡi! Em có vui?

                         Đáy sông xác giặc chìm rồi em nghe

                         Thôi em ở lại anh đi

                         Giết xong giặc Mỹ anh về thăm em

                         Thôi em ở lại Cổ Chiên

                         Quê hương, sóng vỗ ru em bốn mùa

                         Bình yên thuyền đã đến bờ

                         Xa còn thấy bóng em thơ giữa dòng

                         Sáng ngời anh lửa trên sông.

                                                                 10-1967

Nói thật là khi đọc và chép lại các bài thơ về Bến Tre của Hiến bao nhiêu lần mắt tôi bị nhòe vì xúc cảm, mỗi bài thơ là một câu chuyện lay động lòng người, là một tấm gương anh hùng người thật việc thật, không hề hư cấu. Cũng nghĩ rằng đây đâu phải là những câu chuyện chỉ riêng có ở Bến Tre thuở quê hương Miền Nam đang còn ngập chìm trong máu lửa.

Tôi vẫn cứ chép tiếp:

    Em gái đưa đò

               Em mười tám tuổi giao liên

               Trên sông An Hóa ngày đêm đưa đò

               Khi trưa nắng, lúc chiều mưa

               Đò em vẫn nối hai bờ dừa xanh.

 

                Một lần trời mới bình minh

                Em đưa lực lượng biểu tình qua sông

                Vì sao giặc bắn, giặc ngăn

                Qua sông em chẳng ngại ngần vì sao?

 

                Em nghe đạn rít qua đầu

                Mà em vẫn đứng bóng cao giữa trời

                Mái chèo giặc bắn gãy đôi

                Buông chèo thoăn thoắt em bơi bằng dầm

 

                Qua sông, đò vẫn qua sông

                Tìm em, quân giặc đừng hòng tìm em

                Áo em như có phép tiên

                Đò qua mấy chuyến áo em mấy màu

                Lúa vàng, vàng rực như sao

                Lúa xanh, xanh biếc như màu tóc em

                Lửa hồng như máu trong tim

                Trái tim dũng cảm vượt trên đầu thù

                Lúc đen, màu áo chiến khu

                Lúc em trắng áo học trò thương yêu

                Lúc như hoa tím trời chiều

                Thủy chung màu áo, trong veo tâm hồn.

 

                 Trên sông súng vẫn nổ giòn

                  Đò em vẫn lướt sóng dồn hai bên

                  Trùng trùng người chật như nêm

                  Đội quân “đầu tóc” xông lên ào ào

                  Đò xong, em vội cắm sào

                   Bóng em thoắt đã nhập vào đoàn quân

                   Hỡi em – cánh én mùa xuân

                   Hòa trong muôn vạn anh hùng Miền Nam

        Vẫy vùng một chiếc đò ngang.

                                                    10-1965

Qua cầu    

                                    

                 Sao anh lại bước ngập ngừng

                 Vai em dù nặng đâu bằng vai anh

                 Một đêm dưới nước ngâm mình

                 Tụi em lạnh ít, mấy anh lạnh nhiều

                 Hỡi anh giải phóng thân yêu

                 Thương anh khi sớm, khi chiều hành quân

                 Vai anh khiêng súng tím bầm

                 Đường xa mưa ướt mấy lần, anh ơi!

                 Gốc tràm chân bật máu tươi

                 Thương anh lội nước Tháp Mười mênh mông

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                 Đừng lo cầu nổi bềnh bồng, anh nghe!

                 Vai em đỡ, tay em ghì

                 Em kềm thật chắc, anh đi yên lòng

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                Kịp giờ nổ súng, em mừng, em vui

                Dưới sông ngực đập bồi hồi

                Mười hai cô gái, mười hai nhịp cầu

                Mặt sông ánh một trời sao

                 Mắt em lấp lánh, sao nào đẹp hơn?

 

                 Hành quân lòng bỗng bồn chồn

                 Qua cầu lại nhớ vai tròn của em.

                                                       10-1966

                  

                                          Lão du kích

Tuổi lão ngoài sáu mươi                       Vóc người còn khỏe lắm

Lão nói chuyện rất vui                          Giọng lão cười sang sảng.

 

Cả ngày lão ở trần                                 Ngang lưng lận bao thuốc

Đầu bịt chiếc khăn rằn                          Tay lão cầm mác vót.

 

Cuộc đời lão thuở xưa                          Kể hoài không hết khổ

Lão như chiếc lá khô                            Hận thù cao hơn núi.

 

Năm ba mươi, bốn mươi                       Lão có treo cờ đỏ

Trống đình thúc liên hồi                       Chính một tay lão đó.

 

Dạo đánh Pháp chín năm                      Lão vô chân “ tự vệ”

Sau mỗi trận thắng càn                         Lão hoa tay hát bộ.

 

Bây giờ lão ngồi đây                            Vót mũi chông bén ngọt

Mỗi lần nghe máy bay                          Lão vung cây mác vót:

 

-“Mặc phản lực lộn nhào                      Lão đây đâu có sợ

Chỉ gãy vài cây cau                              Lão vót làm chong đó”.

 

Rồi lão kể tôi nghe                               Chuyện đánh ong vò vẽ

Mặt thằng Mỹ sưng vù                         Giọng lão cười rất khỏe.

 

Nào chuyện đắp pháo đài                    Lão đòi lên pháo kích

Lũ trẻ nhìn lão cười                           -“Ngắm súng phải mang kiếng”

 

Chuyện lão cùng thằng con                Căng dây chì trên lộ

Chờ lũ xe ác ôn                                  Vướng dây rơi xuống hố.

 

Nghe chuyện tôi hình dung                Tay lão cầm mác vót

Vỗ đùi nhảy lên đường                       Bắt bảo an sát bót.

 

Lão nói lão già rồi                              Mỗi lần đi đánh giặc

Lão chỉ cần ít thôi:                              Rượu trắng xin vài hớp.

 

Thấy tôi nhìn ngôi nhà                       Cột kèo trây đất sét

Lão khoái chí gật gù                           Rồi ôn tồn giải thích:

 

“Mỹ dội bom na-pan                          Lão trị bằng cách ấy

Đưng, lá cháy mấy lần                       Nhưng cột kèo không cháy”.

 

Tôi bỗng thấy lạ lùng                         Một ngôi nhà lá nhỏ

Ôi bùn đất Việt Nam                          Mạnh hơn bom đạn Mỹ.

 

Tôi nhìn kỹ ngôi nhà                          Rồi nhìn lão ngồi đó:

Lưỡi mác lóe trời xa                           Râu dài rung trắng xóa.

                                                                                    1-1966

Và còn rất nhiều bài nữa, mà mỗi bài là một gương chiến đấu anh dũng của những người con của mảnh đất Miền Nam anh hùng. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ bất hủ “Dáng đứng Việt Nam” tạc hình người chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam bình dị mà anh hùng, tạc hình đất nước Việt Nam là đất nước anh hùng của thế kỷ; một bài thơ đã đưa tên tuổi em vào những trang sử sáng chói của nền văn học Việt Nam hiện đại.

                       Dáng đứng Việt Nam

Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết trong tư thế đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa  đạn cầu vòng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.

Anh tên gì hỡi anh yêu quý

Anh đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.

Tên anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

5-1968

Nhưng Ca Lê Hiến vẫn chưa mãn nguyện với những trang thơ đã viết, em vẫn cảm thấy cần phảỉ có mặt ngay giữa cuộc chiến đấu đang rất ác liệt để có thể nói lên nhiều hơn nữa những điều kỳ diệu về con người Việt Nam, về đất nước Việt Nam. Đây là bức thư ngắn của em gởi cho Viễn Phương, với lời lẽ hết sức tha thiết xin được ra mặt trận:

“Chúng em đã xuống đây rồi, không thể nào trở về không cho được. Xin các anh cho chúng em đi một chuyến ngắn, một chuyến rất ngắn, chỉ vài ngày thôi để biết hơi thở của chiến trường rồi chúng em sẽ trở về căn cứ. Không đi xuống vùng sâu thì không thể nào chúng em có được tác phẩm tốt về cuộc tổng công kích lịch sử này. Chúng em vẫn bám trụ ở đây, và chờ các anh cho người qua đón”.

Nguyện vọng được chấp thuận, em hăng hái quảy ba lô lên đường. Nhưng đâu có ai ngờ rằng đây lại là chuyến đi định mệnh, em đã hy sinh vài ngày sau đó, và hành trình thơ của em cũng phải dừng lại với bao dự định sáng tác đang còn ấp ủ. Đó là lần xuống chiến trường tham gia đợt II cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, trong ba lô còn nguyên vẹn quyển nhật ký được em ghi chép đều đặn từ khi bước chân ra đi trên đất Bắc cho đến 24-5-1968 là ngày hy sinh của em, vào độ tuổi  28 xuân xanh.

Được tin em hy sinh, người vợ chưa cưới của em - Xuân Lan, khi đó đang ở Hà Nội đã nói lên lòng mình bằng những dòng thơ sau đây:

                             Một cuộc đời

Mười chín tuổi, tôi gặp lại anh

Không kịp nghĩ gì mà như không còn gì để nghĩ

Ngoài một cảm xúc rộn ràng bỡ ngỡ

Muốn nhìn anh, muốn đến bên anh

Không, cũng không hẵn là như thế

Bởi ánh mắt anh sao như mời gọi:

 “Đến với anh đi. Hãy đến bên anh”

Hai chúng tôi đã cùng đến.

 

Rất  ngắn và cũng rất dài

Mọi vật như ngưng lại

Đất trời như chưa tồn tại bao giờ

Chúng tôi đã đến bên nhau như thế

Giản dị, thiêng liêng, tràn dâng như sóng bể

Vui sướng, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn

Cả hai rạng rỡ như chưa bao giờ rạng rỡ

Như thế...và cũng chỉ là thế

Bởi chúng tôi quá trẻ, quá khát khao

Cuộc sống hôm nay, cho cả mai sau

Không một lời, mà ánh mắt đã trao:

Hảy chờ nhau!

 

Hai ngày sau

Tôi và anh, mỗi người một phương xa lắc

Tôi bay lên bắc, anh vượt về nam

Đường tôi đi thênh thang rộng mở

Trong bình yên, tôi được nuôi dưỡng nên người

Từng tháng năm đằng đẵng trôi

Cũng từng tháng năm đong đầy thương nhớ!

Trong khắc khoải, tôi mong ước đợi chờ

Tôi vẫn sống, đã sống như triệu người đang sống

Mà tim vẫn vang vọng gọi người:

“Anh đang ở đâu? Anh ở đâu?”

 

Bởi đường vô Nam, anh đi trong lửa đạn

Đói rét, ốm đau, bệnh tật

Chết sống cận kề trong gang tấc

Anh cứ đi và vẫn sống những ngày như thế

Vẫn cùng đồng đội súng trong tay

Cùng vẽ lên những trang sử hùng oai

Cùng viết lên những vần thơ cháy bỏng

Ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống.

 

Anh vẫn đi tiếp bước về phía trước

Mãi đi như thế, anh cứ đi

Cho đến khi tim anh ngừng đập

Một cuộc đời chỉ hăm tám năm thôi

Mà sao đáng sống như người đã sống

Và anh đã nằm sâu trong lòng đất

Đã hiến dâng cho Tổ quốc bình yên:

Cả cuộc đời

Một khối óc

Một trái tim.

                                               Xuân Lan (Hà Nội tháng 12-1968, được tin anh hy sinh ngày 24-5-1968).

Và cũng suốt mấy mươi năm từ ngày đất nước được giải phóng, năm nào cũng như năm nào, cứ đến Tết và ngày giổ của Ca Lê Hiến, cho dù đã có gia đình riêng nhưng Xuân Lan luôn có những bó hoa đẹp nhất đem đặt trước mộ Hiến với những giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ...

Tác giả: Nguyễn Long Trảo

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây