Ngôn ngữ
Từ tháng 9/1995 đến nay, công tác tài chính và quản lý tài chính của Trường ĐH KHXH&NV được thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính đơn vị hành chính sự nghiệp, thực hiện chi tiêu tài chính theo đúng qui định, định mức chế độ của Nhà nước.
Từ năm 2002 đến nay, Nhà trường chuyển sang cơ chế quản lý tài chính đơn vị hành chính sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Với các nguồn kinh phí được giao tự chủ tài chính, trên cơ sở Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 Nhà trường được chuyển sang thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006, quy định quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về tài chính, tổ chức bộ máy, biên chế thực hiện nhiệm vụ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Nhà trường được quyền xây dựng một số định mức chi có thể cao hơn qui định của Nhà nước và hàng năm đã tiến hành sửa đổi qui chế chi tiêu nội bộ. Các nguồn kinh phí không thuộc quyền tự chủ, Trường đã thực hiện quản lý và chi tiêu theo đúng qui định của Nhà nước và Bộ Tài chính qui định.
Nhà trường đã có những giải pháp và kế hoạch tự chủ về tài chính, có một hệ thống quản lý tài chính chặt chẽ, phù hợp với các qui định của ĐHQGHN và của Nhà nước, thực hiện phân bổ và sử dụng tài chính hợp lý, công khai, minh bạch và có hiệu quả được thể hiện qua các tiêu chí sau:
9.1.Có những giải pháp và kế hoạch tự chủ về tài chính, tạo được các nguồn tài chính hợp pháp, đáp ứng các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của Trường
Nhà trường đã được ĐHQGHN giao tự chủ về tài chính, do vậy trong qua trình thực hiện công tác quản lý và sử dụng các nguồn tài chính Nhà trường đã đưa ra nhiều giải pháp và kế hoạch tự chủ về tài chính phục vụ tốt các hoạt động của Nhà trường. Nhà trường đã có những chính sách khen thưởng đối với đơn vị và cá nhân khai thác được nguồn kinh phí từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học về trường .
Dựa trên kế hoạch, chiến lược phát triển trường ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhà trường đã xây dựng dự toán ngân sách cũng như qui định phân bổ tỷ lệ sử dụng các nguồn thu bổ sung và giao quyền tự chủ cho các đơn vị về một số nội dung chi nguồn kinh phí. Để phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị cùng với nguồn kinh phí hàng năm, nhà trường đã xây dựng những qui định về chi trả thu nhập cho cán bộ, viên chức.
Các nguồn tài chính của Trường đều là nguồn tài chính hợp pháp và tăng hàng năm, năm 1995 tổng nguồn thu trên 10 tỷ đến năm 2015 nguồn thu đã tăng lên trên 180 tỷ cụ thể gồm có các nguồn sau:
Nguồn ngân sách nhà nước tăng đều hàng năm, ngoài việc cấp kinh phí chi thường xuyên và chi quỹ lương ổn định qua các năm thì Nhà trường đã được giao kinh phí tăng thêm hàng năm để thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt, một số đề án phát sinh theo kế hoạch chiến lược phát triển trường và phát triển của ĐHQGHN. Cụ thể giai đoạn 2010-2014, Nhà trường được cấp kinh phí thực hiện đề án đào tạo các ngành khoa học cơ bản; kinh phí thực hiện đề án đào tạo một số ngành đạt chuẩn quốc tế, kinh phí thực hiện chuyển đổi chương trình đào tạo v.v....
Nguồn kinh phí thu từ phí, học phí tăng đều hàng năm, chủ yếu là nguồn kinh phí thu từ học phí đào tạo theo nhiệm vụ chỉ tiêu Nhà nước giao, mức thu do Nhà trường quy định tăng hàng năm đúng theo quy định của Nhà nước.
Nguồn kinh phí từ hoạt động dịch vụ đào tạo tăng do Nhà trường đã chủ động ký kết hiệp định liên kết đào tạo với các đối tác trong và ngoài nước, giai đoạn 2009-2014 tổ chức liên kết đào tạo với các trường đại học của Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp...
Nguồn kinh phí viện trợ, tài trợ tương đối ổn định, mỗi năm được tài trợ 4 đến 5 tỷ đồng chủ yếu tài trợ thực hiện các dự án nghiên cứu, tổ chức hội thảo quốc tế.
Nguồn thu từ hoạt động Nghiên cứu khoa học ứng dụng tăng hàng năm, số kinh phí tăng lên và số lượng đề tài nghiên cứu cũng tăng lên. Nguồn kinh phí NCKH từ các quỹ khác tăng lên nhiều.
Trong giai đoạn 1995 – 2014, Nhà trường đã đầu tư kinh phí thực hiện các công việc như : hoàn thành nhiệm vụ chuyển đổi chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra với đối với bậc đại học và sau đại học. Đầu tư biên soạn, xuất bản giáo trình, bài giảng; đầu tư từ quỹ phát triển sự nghiệp đầu tư nguồn nguồn kinh phí thường xuyên để mua sắm, sửa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất của Nhà trường.
Nguồn kinh phí thực hiện nhiệm vụ NCKH giai đoạn 1995- 2014 đã không ngừng tăng lên cả về số lương đề tài và số kinh phí được đầu tư. Kinh phí đã được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau; từ nguồn NSNN cấp do ĐHQGHN giao, nguồn kinh phí từ các quỹ NCKH trọng điểm, cơ bản của Nhà nước; nguồn kinh phí thực hiện nghiên cứu với các địa phương; cụ thể như sau: kinh phí đầu tư thực hiện đề tài cấp Nhà nước,kinh phí đầu tư thực hiện đề tài trọng điểm cấp quốc gia; kinh phí đầu tư thực hiện đề tài cấp trường năm
9.2.Công tác lập kế hoạch tài chính và quản lý tài chính được chuẩn hoá, công khai hoá, minh bạch và theo đúng quy định
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đang thực hiện cơ chế quản lý tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, đối với nguồn kinh phí được giao quyền tự chủ, Nhà trường thực hiện quản lý và chi tiêu theo quy chế chi tiêu nội bộ (quy chế chi tiêu nội bộ đã được xây dựng theo đúng văn bản hướng dẫn Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo qui định tại Nghị định 43/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và đã báo cáo ĐHQGHN), đối với nguồn tài chính không tự chủ như kinh phí nghiên cứu khoa học, kinh phí thực hiện chương trình mục tiêu. Nhà trường thực hiện công tác quản lý, chi tiêu theo đúng quy định của Nhà nước... đối với nguồn thu bổ sung, mỗi nguồn thu Nhà trường đều xây dựng quy định thu và sử dụng nguồn thu theo đúng quy định của Nhà nước.
Công tác lập kế hoạch tài chính của Nhà trường được thực hiện hàng năm, chi tiết, cụ thể, rõ ràng, sát với từng nhiệm vụ, chiến lược phát triển của Nhà trường
Hàng năm, căn cứ vào chỉ tiêu, nhiệm vụ được ĐHQGHN giao, căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược phát triển Nhà trường về đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác, Nhà trường tiến hành xây dựng kế hoạch tài chính chi tiết cho từng nguồn kinh phí, từng nội dung, từng nhiệm vụ ứng với loại, khoản, mục theo đúng văn bản hướng dẫn của ĐHQGHN và quy định của Bộ Tài chính. Nhà trường lập kế hoạch tài chính đối với nguồn ngân sách cấp cho nhiệm vụ đào tạo đại học, sau đại học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, các chương trình mục tiêu, các nhiệm vụ đặc biệt theo đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định; Lập kế hoạch tài chính đối với nguồn thu học phí các hệ đào tạo; đại học chính quy, tại chức, cao học, nghiên cứu sinh, liên kết đào tạo với nước ngoài, theo chỉ tiêu đào tạo, định mức thu, định mức chi cho từng hệ đào tạo, theo qui định của Nhà nước, của ĐHQGHN và chiến lược xây dựng và phát triển của Nhà trường.
Công tác quản lý tài chính đã được chuẩn hoá, công khai hoá, sử dụng phần mền chuyên dụng phù hợp với sự thay đổi của chế độ kế toán của Nhà nước thực hiện chế độ kế toán, thống kê, báo cáo, quyết toán, kiểm tra và công khai tài chính, thể hiện ở các nội dung sau: nhà trường đã mở đầy đủ, chi tiết hệ thống sổ sách kế toán theo đúng qui định của Nhà nước, của Bộ Tài chính và theo dõi tất cả các nguồn thu một cách rõ ràng, cụ thể, chi tiết đến từng nguồn, loại, khoản, hạng thu.
Hàng năm, Nhà trường tiến hành công khai nguồn tài chính được sử dụng, chi tiết đến từng nhiệm vụ; đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ đặc biệt khác... Nhà trường công khai toàn bộ tình hình kinh phí được cấp và quyết toán kinh phí một năm hai lần vào 2 hội nghị; hội nghị cán bộ chủ chốt; hội nghị cán bộ viên chức . Vì thành phần tham dự hội nghị này là toàn bộ cán bộ công chức của đơn vị do vậy khi công khai công tác tài chính thông qua hội nghị này mục đích của Nhà trường là để toàn thể cán bộ trong toàn trường nắm được mọi hoạt động về tài chính của Nhà trường, ngoài ra Nhà trường còn thực hiện báo cáo công khai tài chính theo quy chế 3 công khai của Thông tư 09/2009/TT-BGD&ĐT trên website của nhà trường và gửi báo cáo lên các cơ quan cấp trên.
Đến nay, toàn bộ dây chuyên kế toán đã thực hiện trên phần mềm tin học. Các mẫu Báo cáo, quyết toán tài chính được lập theo đúng quy định, theo đúng kỳ hạn nộp báo cáo của Nhà nước và của Bộ Tài chính.
Công tác quản lý và sử dụng tài chính thực hiện theo đúng qui định của Nhà nước, công tác này đều được cơ quan tài chính cấp trên,( Đại học Quốc gia Hà Nội ; Kiểm toán nhà nước, thanh tra Nhà nước) tổ chức đoàn kiểm tra, thẩm định báo cáo tài chính và công tác tài chính của đơn vị thường niên và định kỳ đột xuất (nếu có). Giai đoạn 1995-2015 và các năm trước đó công tác kế hoạch, quản lý, sử dụng, báo cáo tài chính của Nhà trường đều đã được các cơ quan tài chính cấp trên thẩm định và đánh giá là đơn vị thực hiện tốt công tác này, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm không tham nhũng, lãng phí, không vi phạm các quy định về quản lý tài chính .
9.3. Đảm bảo sự phân bổ, sử dụng tài chính hợp lý, minh bạch và hiệu quả cho các đơn vị và các hoạt động của Trường
Nguồn tài chính của Trường gồm 3 nguồn chính là nguồn ngân sách nhà nước cấp, nguồn tài trợ, viện trợ và nguồn thu bổ sung, mỗi nguồn kinh phí đều được phân bổ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và phát triển Nhà trường và theo đúng quy định của Nhà nước.
Đối với nguồn Ngân sách Nhà nước cấp, trường thực hiện việc phân bổ theo mục lục ngân sách chi tiết đến loại, khoản, mục gắn liền với từng nhiệm vụ đảm bảo đúng nguồn, đúng mục, đúng nhiệm vụ, trên cơ sở dự toán đã lập nên hàng năm.
Đối với nguồn tài trợ, viện trợ, mỗi nguồn tài trợ đều có dự án tài trợ chi tiết của nhà tài trợ cho từng nhiệm vụ cụ thể với số kinh phí cụ thể và trên cơ sở dự án chi tiết để sử dụng đúng về nội dung tài trợ và đủ về số tiền tài trợ. Đối với các nguồn thu (học phí, lệ phí và các hoạt động dịch vụ khác..) Nhà trường phân bổ theo đúng quy định của Nhà nước áp dụng đối với từng khoản thu, có quy định chi tiết việc phân bổ các nguồn thu như việc phân bổ tỷ lệ sử dụng cho nguồn học phí chính quy, nguồn học phí tại chức, học phí cao học.... những quy định phân bổ và sử dụng các nguồn thu này cũng được thay đổi theo qui định của Nhà nước. Trong quy định phân bổ sử dụng các nguồn thu, Nhà trường luôn quan tâm đến mục cơ sở vật chất, tỷ lệ phân bổ vào mục này cũng được thay đổi cho phù hợp tình thực tế và nhiệm vụ chiến lược đề ra của Nhà trường.
Nguồn tài chính của Trường được phân bổ tỷ lệ sử dụng vào các nhiệm vụ và nội dung chi hợp lý, hàng năm đều có sự điều chỉnh; thể hiện một số nội dung sau:
Nhà trường thường xuyên thực hiện điều chỉnh tỷ lệ sử dụng các nội dung chi đối với nguồn kinh phí vừa làm vừa học phù hợp với tình hình thực tế trong qui định phẩn bổ sử dụng nguồn kinh phí này; xây dựng và điều chỉnh các mức chi đối với việc phát triển đội ngũ cán bộ; xây dựng kế hoạch kinh phí hàng năm cho nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ trong và ngoài nước, giai đoạn 1995 - 2014 Nhà trường đều phân bổ khoản kinh phí cho việc cử đoàn cán bộ quản lý và giảng viên đi trao đổi, học tập kinh nghiêm, tham gia hội thảo, hội nghị quốc tế với các nước Anh, Mỹ, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan... Phân bổ kinh phí đầu tư cho việc mua sắm, nâng cấp cải tạo cơ sở vật chất của Nhà trường phục vụ giảng dạy, học tập nghiên cứu của cán bộ và sinh viên; giai đoạn 1995- 2014 Nhà trường đã đầu tư kinh phí cho Khoa Tâm lý học, Du lịch học thực hiện đề án tăng cường năng lực nghiên cứu, đầu tư cải tạo nâng cấp nhà A, B, C, nhà I, năm 2014-2015 nhà trường đầu tư cải tạo nhà M với tổng kinh phí hơn 19 tỷ.
Nhà trường đã cố gắng tăng nguồn thu, tiết kiệm chi, tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ, công chức trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Từ năm 2006 đến nay, căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính hàng năm nhà trường xác định quỹ tiền lương, tiền công sau khi thống nhất với tổ chức Công đoàn trường, Hiệu trưởng quyết định việc chi trả tiền lương, thu nhập tăng thêm theo kết quả xét thi đua và danh hiệu bình xét thi đua A, B, C (cụ thể mức thu nhập tăng thêm tăng dần qua các năm: 2009 là 450.000đ/hệ số, 2010 là 600.000đ/hệ số, 2011 là 900.000đ/hệ số, năm 2012 là 1.000.000đ/hệ số, năm 2013 ngoài việc điều chỉnh hệ số tiền công tăng lên còn tăng cả mức chi trên một hệ số 1.700.000đ/hệ số 2013, 1.800.000đ/hệ số vào năm 2014.
Đổi mới các hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học, Trường đã dùng kinh phí ngân sách nhà nước và nguồn thu bổ sung để biên soạn chương trình, viết và xuất bản giáo trình, dịch tài liệu tham khảo và mua tài liệu bổ sung hàng năm. Xây dựng chương trình đổi mới phương pháp giảng dạy. Tổ chức cho sinh viên đi thực tập thực tế không những ở trong nước mà còn ở nước ngoài. Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại cho các phòng học như dự án: Xây dựng phòng học chuẩn chất lượng cao. Dự án bảo tàng Nhân học phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu và học tập của giảng viên và sinh viên khoa Lịch sử, dự án đào tạo theo nhiệm vụ chiến lược .
Nâng cấp cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin thiết thực phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và quản lý, cụ thể: Nhà trường đã dành kinh phí từ ngân sách Nhà nước và nguồn thu bổ sung xây dựng nhà 4 tầng, nhà 8 tầng, nhà Internet, nâng tầng nhà nối AB, BC, và đang nâng tầng các nhà B, C... xây dựng phòng học chuẩn, xây dựng bảo tàng, phòng truyền thống, nâng cấp và hiện đại hoá trang thiết bị cho các giảng đường như: trang bị hệ thống âm thanh, trang âm giảng đường, trang bị máy tính phòng Internet, máy chiếu, hội trường, hiện đại hoá các phương tiện nghe nhìn, bảng viết, bục giảng, bàn ghế cho các giảng đường, phòng họp, hiện đại hoá trang thiết bị cho khu hành chính, phòng ban làm việc, hàng năm số kinh phí đã sử dụng từ 5 đến 8 tỷ đồng.
Trong 20 năm trở lại đây ( 1995 -2015) công tác tài chính của Nhà trường được ĐHQGHN thẩm định và nhận xét là đã đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, sửa chữa, mua sắm trang thiết bị phục vụ giảng dạy... của đơn vị. Báo cáo quyết toán của đơn vị theo đúng qui định về chế độ kế toán của Bộ Tài chính
Nhà trường đã đưa việc thanh toán chậm đề tài khoa học, giáo trình, bài giảng của cán bộ vào tiêu chí để xếp danh hiệu thi đua và xét phân loại lao động làm cơ sở chi trả thu nhập tăng thêm kết quả đạt được đã cải thiện tốt tiến độ thanh toán.
Giai đoạn 1995-2014 Nhà trường đã tiếp tục đề nghị cải tạo nâng tầng, nâng cấp một số giảng đường, phòng học chuẩn cho đào tạo chiến lược đáp ứng nhu cầu phát triển một số ngành học mới... theo tiêu chuẩn hiện đại và ứng dụng hiệu quả công nghệ cao phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và quản lý.