Ngôn ngữ
1. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân
Một trong những nội dung bao trùm của bản Di chúc là vấn đề con người và tư tưởng của Người về giá trị nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã được hình thành sớm, là nhân tố hằng xuyên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người, thể hiện khát vọng, ý chí đấu tranh giải phóng con người, giải phóng gia cấp, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam đồng thời góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Trải xuyên qua lịch sử hàng ngàn năm lịch sử dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kiệt xuất, biểu tượng của Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, các giá trị về con người được biểu đạt bằng lòng nhân ái, đức khoan dung, tình yêu nước nhiệt thành và sự trung thành tuyệt đối với sứ mệnh mà Tổ quốc, nhân dân giao phó. Cuộc đời Người là cả một chặng đường đấu tranh gian khổ vì hòa bình, nền độc lập của dân tộc Việt Nam và cho tất cả các dân tộc bị nô dịch. Lòng yêu thương, quý trọng con người của Hồ Chí Minh có cội nguồn sâu xa từ cốt cách nhân văn của gia đình, dòng họ, quê hương và của dân tộc Việt Nam. Bằng ý chí và hành động cách mạng, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng cho quá trình đấu tranh khẳng định sức sống văn hóa, ý chí độc lập và vị thế của một dân tộc.
Trong tư tưởng nhân văn của Người, khái niệm “giải phóng” là điểm cốt yếu, có giá trị trung tâm. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng không chỉ là nhằm xóa bỏ xích xiềng nô lệ mà còn là quá trình giải phóng mang tính toàn xã hội, hướng đến một nền tự do thực sự và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người. Trong suốt cuộc đời mình, bao giờ, ở đâu, với cương vị nào, Người cũng luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân, nhất là những người lao khổ từng bao đời phải sống trong đói nghèo, lạc hậu, thất học... Tư tưởng của Người thể hiện những khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước của Người xuất phát từ lòng yêu thương vô hạn đối với nhân dân bị áp bức. Nó không dừng lại trong phạm vi dân tộc mà mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Chính vì thế, không chỉ nhân dân Việt Nam yêu quý Người, mà nhân dân thế giới cũng đáp lại tình cảm của Người và coi Người như người bạn thân thiết”[1].
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là những giá trị kết tinh của truyền thống văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam mà còn là sự hợp luyện tinh hoa của văn hóa châu Á và thế giới. Xuất thân từ một xứ nông nghiệp lạc hậu, trong một gia đình Nho giáo, nhưng trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước, “những đất tự do, những trời nô lệ”, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, tìm hiểu nhiều khuynh hướng chính trị, nghiên cứu nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Người đã qua cả hai bờ Đại Tây Dương, định cư ở Luân-đôn, Pa-ri. Ở Mỹ, Người học tập Washington, Lincoln; ở Pháp nghiên cứu Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền, thích Michelet, Jaurès. Chủ nghĩa nhân văn phương Tây cận đại cho dù hạn chế cũng mở ra một khoảng chân trời bởi tính phổ biến (Unversalism) bắt gặp tư tưởng đại đồng Nho giáo[2].
Trong những năm ở nước ngoài, Người đã tìm hiểu, thâm nhập vào nền văn hóa Pháp, văn hóa Xô-viết, văn hóa dân chủ mới Trung Quốc,… đã đọc W.Shakespeare, Ch.Dickens, V.Hugo, A.France, L.Tolstoy, Lỗ Tấn,… từ nguyên bản. Người đã dịch Quốc tế ca của E.Pottier (Pháp), Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của K.Marx - F.Engel, Tinh thần luật pháp của Montesquieu, Tỉnh ủy bí mật của Phedrov (Nga), Tân dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên v.v… ra tiếng Việt[3]. Do có nền tảng tri thức phong phú, tầm kiến văn rộng lớn nên ngay sau khi trở về nước chuẩn bị cho cao trào cách mạng mùa Thu năm 1945, nhiều giá trị văn hóa, nhân văn thế giới đã được Người giới thiệu, lan tỏa trong công chúng. Trong di sản Hồ Chí Minh, “Các bài thơ, tiểu luận và diễn văn của Người phản ánh một sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn minh nhân loại và một niềm tin chung thủy đối với bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia, kể cả dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới. Vì vậy, Người được yêu mến, khâm phục và kính trọng trên toàn thế giới”[4].
Với Hồ Chí Minh, yêu nước đồng nghĩa với thương dân. Tình thương của Người với nhân dân không phải từ một đấng bề trên mà là sự đồng cảm, cộng cảm và sự truyền nối những giá trị linh thiêng, máu thịt tự trong hai chữ “đồng bào”. Hiểu thấu nỗi thống khổ của nhân dân, nỗi nhục của một dân tộc mất quyền tự do (mà dân tộc ấy từng đạt được nhiều vinh quang trong quá khứ), Người đã khát khao kiếm tìm một con đường đi mới cho dân tộc, để không chỉ thực hiện sứ mệnh phục hưng quốc thống mà còn nhằm đạt đến những thang bậc, giá trị mới trong tư duy chính trị của thời đại, đem lại ánh sáng, niềm tin cho nhân dân[5].
Trong nhận thức của Người, thương dân thì điều nhất thiết và trước hết là phải cứu dân thoát khỏi gông cùm nô lệ. Nhưng muốn cứu nước, cứu dân thì phải dựa vào dân, huy động sức mạnh nội sinh tự chính dân tộc mình. Nhân dân (nhất là nông dân, công nhân...) là lực lượng đông đảo, chủ đạo, mạnh mẽ, kiên định của cách mạng[6]. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, tinh thần đoàn kết của toàn dân thì Đảng lãnh đạo có thể lật đổ chế độ thống trị của thực dân và ách đô hộ phong kiến. Để làm nên sự nghiệp lớn lao đó, Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách làm giàu tri thức của mình bằng những giá trị tinh thần và cách thức đấu tranh của nhiều lãnh tụ cách mạng trên thế giới. Do vậy, “Chất con người Hồ Chí Minh là chất Việt Nam, chất cách mạng, chất cộng sản, chất nhân văn, tất cả gặp gỡ, hòa quyện trong một con người và được nâng lên do sứ mệnh lịch sử của con người đó”[7]. Nói cách khác, “Hồ Chí Minh đã biết áp dụng một cách tài tình các nguyên lý bất tử của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và lịch sử đã chứng minh Người đã có lý”[8].
Sự nghiệp cách mạng - Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với những sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam. Những thành công của cách mạng Việt Nam là những minh chứng giàu sức thuyết phục về tinh thần sáng tạo và sức sống của một mô hình nhà nước mới. Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là một trong những người châu Á đầu tiên, bằng trí tuệ, sự nhạy cảm chính trị và lòng yêu nước đã tiếp thu những tư tưởng về đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa của Lê-nin để rồi biến những vũ khí lý luận đó thành lực lượng vật chất cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, góp phần làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở châu Á[9]. Nghe theo lời hiệu triệu của Người, tin vào tài năng tổ chức, nhân cách của Người, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh để thiết lập nên Nhà nước Dân chủ, Cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp đó đã bảo vệ thành quả cách mạng bằng cuộc kháng chiến bền bỉ chống thực dân Pháp[10]. Với Hồ Chí Minh, lời nói luôn gắn liền với hành động, lý luận luôn đi đối với thực tiễn. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Người là nhà chiến lược thiên tài đồng thời là nhà tổ chức vĩ đại. Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên viết “Bản án chế độ thực dân” và cũng chính Người đã cùng với dân tộc thi hành bản án ấy”[11].
Luận giải về cội nguồn của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, nhà sử học Trần Văn Giàu cho rằng, Hồ Chí Minh được sinh thành trong một gia đình, vùng quê “địa linh” giàu đậm truyền thống văn hóa và chất nhân văn. Vùng quê đó đã sinh ra một Nhân kiệt làm rạng danh cho đất nước. Từ Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã đến với những tư tưởng vĩ đại của K.Marx - F.Engel, tiếp cận và theo đuổi các mục tiêu đấu tranh vì một chủ nghĩa nhân văn và các giá trị mới: Giải phóng đất nước, giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh xuất phát từ cội nguồn dân tộc, quốc tế ấy và thực tế đã đạt đến độ hòa hợp cao với những giá trị chung của khu vực, nhân loại.
Trước những thách thức khắc nghiệt của lịch sử, nghe theo lời hiệu triệu: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, vì sự tồn vong của đất nước và danh dự của chính mình, nhân dân Việt Nam đã anh dũng đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù hùng mạnh, hung hãn nhất thế giới. Trong sự nghiệp cao cả đó, Hồ Chí Minh “được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”[12].
Vào thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với nhiều đế chế lớn thế giới. Chủ quyền, nền độc lập của dân tộc nhiều lần bị đe doạ nghiêm trọng. Chưa có một thế kỷ nào mà trên lãnh thổ Việt Nam lại xuất hiện đồng thời nhiều đội quân xâm lược nước ngoài như thế, và cũng chưa có một thế kỷ nào mà đất nước Việt Nam lại phải chịu nhiều hy sinh, tổn thất như vậy! Nhưng, Việt Nam đã đứng vững, đã từng bước hồi sinh và phát triển. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của một dân tộc có sinh lực văn hóa mạnh mẽ. Là người đứng đầu trào lưu đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của niềm tin, bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần dũng cảm của một dân tộc. Khát vọng mạnh mẽ, ham muốn tột bậc của Người về một Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành đã trở thành phương châm hành động, mục tiêu đấu tranh và chất kết tụ toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đã thành công trong sự nghiệp to lớn đó vì nguyện vọng tối cao của nước, nguyện vọng tha thiết nhất của dân cũng là nguyện vọng, lẽ sống của Người[13]. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”[14].
2. Tư tưởng bình đẳng, bác ái và niềm tin ở con người
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, nghiên cứu, kế thừa những tư tưởng lớn của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam, về quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Đó là chân lý bất tử, là lẽ tự nhiên, sự thật không ai có thể bác bỏ, xâm phạm[15]. Tuy nhiên, trong suốt hơn 8 thập niên độ hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm mọi cách chia rẽ về chính trị, xóa bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Về kinh tế “chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”[16].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người luôn thấm đượm triết luận, chất nhân văn châu Á. Theo Người, tính thiện, ác trong mỗi con người không phải bản tính tự nhiên mà là do xã hội, chế độ giáo dục quy định nên. Hơn thế, bản tính của con người cũng có thể biến đổi theo thời gian do những tác nhân xã hội và để thích ứng với môi trường xã hội. “Người tôn trọng từ bi của đạo Phật như cái gốc của đạo đức... và tình cảm ấy hòa hợp với lòng yêu nước, thương dân”[17]. Lúc ở trong nước cũng như khi hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa các nền văn hóa để làm giàu thêm vốn tri thức, tinh thần nhân văn và sự hiểu biết về con người. Điều mà Hồ Chí Minh luôn quan tâm là vấn đề con người và chính Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho nhân dân, đất nước[18].
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người là giá trị bao trùm, quán xuyến toàn bộ tư tưởng, suy nghĩ và hành động. Bản Di chúc là sự chưng cất những suy nghĩ, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và vì con người. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố trung tâm, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc cần phải có những con người toàn diện. Đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc. Người từng chỉ rõ: “Đạo đức có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Bất kỳ lúc nào, ở đâu, làm việc gì người cán bộ, đảng viên cũng cần “phải thấm nhuần đạo đức cách mạng”. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng trở nên quan trọng.
Ở nhiều bài viết, Người luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cánh mạng. Tầm nhìn Hồ Chí Minh về con người không chỉ là giải phóng nhân dân thoát khỏi xích xiềng nô lệ mà còn là việc bảo đảm hạnh phúc thực sự cho người dân. Đó chính là giá trị đích thực của nền độc lập, tự do mà bao thế hệ chiến sĩ cách mạng, nhân dân đã phải hy sinh, đổ máu để giành đoạt lại. Hồ Chí Minh nhìn thấy rõ quy luật vận động, phát triển của lịch sử và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi theo quy luật ấy. Người “biết mình muốn gì và đi đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch, con người tĩnh như núi, động như biển, nắm vững nghệ thuật của điều có thể và không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể”[19].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam, con người cũng luôn giữ vị trí trung tâm. Đào luyện con người là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của mọi kế hoạch, chiến lược phát triển. Trong Di chúc, Người thể hiện niềm tin, tình cảm lớn lao với con người bởi sự nghiệp cách mạng, chống đế quốc xâm lược, “giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”, là “việc chung của cả dân chúng”, là gốc của mọi thành công. “Hồ Chí Minh là con người có lòng tin không gì lay chuyển nổi vào tương lai dân tộc và loài người, vào chủ nghĩa xã hội: Đó là chất không bao giờ biến đổi để ứng phó linh hoạt với muôn vàn biến đổi của một sự nghiệp đầy sóng gió”[20]. Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến những đóng góp, hy sinh thầm lặng của nhân dân. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thương nhớ da diết miền Nam, nhớ tới cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã và đang quên mình chiến đấu, hy sinh nơi thành đồng Tổ quốc. Người từng băn khoăn về việc chưa làm trọn trách nhiệm cách mạng với tiền tuyến lớn và mong ước được sớm trở về Nam sau ngày đất nước hoàn toàn độc lập.
Một trong những điểm cốt lõi, nổi bật trong Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào sức mạnh, phẩm giá cao quý của con người. Con người, tự trong bản chất, là những sinh thể sáng tạo, luôn khát khao vươn tới cái đẹp, quyền sống và chân lý tự do. Thấu hiểu những di chứng nặng nền của chế độ thống trị thực dân và những thảm họa do chiến tranh gây ra, Hồ Chí Minh luôn tin vào tư chất, tính sáng tạo, bản lĩnh của con người Việt Nam. Chính những giá trị đó đã làm nên những phẩm cách của một Dân tộc anh hùng.
Triết lý nhân văn, tình yêu con người của Hồ Chí Minh đã vượt lên đường biên của một quốc gia để đạt đến tầm mức, giá trị nhân bản phổ quát của nhân loại. Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến những ngày về với “thế giới người hiền”, Hồ Chí Minh luôn coi Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam là một bộ phận gắn bó hữu cơ với cách mạng thế giới. Vì thế, tất cả các cộng đồng dân tộc trên thế giới, dù thuộc màu da, ngôn ngữ, địa vị kinh tế, xã hội nào... cũng luôn bày tỏ tình cảm quý mến, kính trọng Người. Là người tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống xâm lược Mỹ, nhưng Hồ Chí Minh luôn tôn trọng nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và tất cả những ai yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tư duy chính trị minh định đó khiến nhân dân thế giới luôn nhận thấy những giá trị đích thực, sự chân tình vì thế đã tin cậy, quý mến, ủng hộ mạnh mẽ cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam.
Trong những lời dạy của Người cũng như trong Di chúc, Hồ Chí Minh luôn coi trọng, đề cao phẩm giá con người, kể cả những người có sai khuyết, lầm lạc. Người luôn tin rằng, bằng sức cảm hóa, giáo dục, bằng tấm lòng bao dung chân thành, những con người đó hoàn toàn có thể sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm để trở thành người có ích cho xã hội. Hồ Chí Minh luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với tổ chức, với từng công việc nhưng cũng luôn có thái độ khoan dung với những cán bộ dưới quyền, nhân viên phục vụ[21]. Lòng nhân ái Hồ Chí Minh thật rộng lớn, sâu sắc nhưng đồng thời cũng rất dung dị, tự nhiên. Hằng ngày, ai cũng có thể thấy Bác Hồ yêu trẻ, kính già, trọng phụ nữ[22].
Với con người, Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc đào tạo cán bộ, huấn luyện chiến sĩ; thương yêu, chăm lo cho đồng bào miền núi, các dân tộc thiểu số vùng Trường Sơn - Tây Nguyên từng manh áo, bát cơm, hạt muối,… Hồ Chí Minh còn là một biểu tượng sinh động về tính nêu gương. Trong Di chúc, Người từng viết: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Thấm nhuần triết lý cổ kim, Đông Tây, hiểu rõ hoàn cảnh kinh tế của đất nước, Người đề cao tư tưởng: Cần, kiệm, liêm, chính và coi đó là những phẩm cách cốt yếu của người cán bộ cách mạng. Tác giả Việt Phương viết: Không một thứ gì hơi đài các là có thể tồn tại trong nơi ở và làm việc của Người. Gường của Bác nằm bao giờ cũng chỉ có chiếu trơn, một cái chăn đơn và một chăn len Bác dùng mùa rét[23]. Nhà nghiên cứu Ấn Độ T.N.Kaul cũng có chung nhận xét: “Khi tôi đến thăm Người lần đầu năm 1957 tại cơ quan của Người ở Hà Nội, tôi rất ngạc nhiên về cách ăn mặc giải dị của Người. Người mặc bộ đồ bằng vải ka ki, chân đi dép cao su. Người đưa tôi đi thăm căn nhà mà Người đang ở. Đó là một căn nhà gỗ nhỏ bé, tiện nghi sơ sài, đầy cây xanh. Mặc dù giữ chức vụ cao, Hồ Chí Minh vẫn duy trì một nếp sống giản dị, làm cho Người có điều kiện gần gũi với quần chúng và quần chúng cũng đồng cảm với Người”[24].
Tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính được thể hiện nhất quán, sâu sắc trong toàn bộ cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh và có sức lan tỏa mạnh mẽ đến nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên. Lúc sắp qua đời, là người lãnh đạo Đảng và nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn muốn tiết kiệm thời gian, tiền bạc của nhân dân. Người muốn được thực hiện thể thức hỏa táng truyền thống để được về với nhân dân ba miền Bắc - Trung - Nam; được về với thiên nhiên trên những ngọn đồi thoáng mát, tiếp tục góp phần phát triển kinh tế, bảo vệ thế giới tự nhiên, hệ sinh thái và được xum vầy với các tầng lớp nhân dân, với các cụ cao tuổi. Con người và thiên nhiên là hai người bạn đời luôn gần gũi, gắn bó mật thiết với Người.
Trong Di chúc, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người hòa quyện với khái niệm nhân dân, đất nước, với các thành phần xã hội, đồng bào miền xuôi, miền ngược, với nhân dân thế giới... Ở đó, mỗi con người là một nhân cách, phẩm giá. Nếu tin tưởng giao nhiệm vụ cho họ, biết đoàn kết, hợp tụ họ lại, khích lệ tinh thần và năng lực của họ thì tất cả mọi cá nhân trong cộng đồng dân tộc ấy sẽ dốc lòng, dốc sức đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành công.
3. Những nghĩ suy về thời hậu chiến
Trong Di chúc, phần bổ sung tháng 5 năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương, ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, công việc trọng yếu mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn những vết thương nghiêm trọng do chiến tranh gây ra. Người cho rằng, “đó là một công việc to lớn, nặng nề, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[25].
Như vậy, cùng với việc mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, tái thiết các thành phố, xây dựng xóm làng, mở mang kinh tế, sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới… điều quan tâm đặc biệt, nỗi trăn trở lớn nhất của Người là công tác chỉnh đốn Đảng, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ mới. Muốn vậy, Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, đó là cách tốt nhất để củng cố, phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và điểm mấu chốt là “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người căn dặn, cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[26]. Đó là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Thấm nhuần tư tưởng trong Di chúc, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu phân tích: “Về chỉnh đốn Đảng, Bác không coi đó là biện pháp tình thế mà là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, là sự vận động của bản thân Đảng trong quá trình phát triển cách mạng. Khi cách mạng khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường, không để rơi vào tình trạng dao động, bi quan; khi cách mạng trên đà thắng lợi, chỉnh đốn Đảng để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu; khi Đảng cầm quyền đảng viên rất dễ đánh mất mình, ngày hôm qua vĩ đại, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến nếu họ không trong sáng, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy phải coi trọng chỉnh đốn Đảng”[27].
Cùng với việc chỉnh đốn Đảng, Người đặc biệt chăm lo đến những diễn chuyển xã hội, con người thời hậu chiến và xác định đó là công việc đầu tiên cần làm. Trong Di chúc, luôn thấy trào dâng một tình cảm lớn lao của Hồ Chí Minh về cuộc sống của từng lớp người, đặc biệt là các cán bộ, chiến sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong... những người ở vị trí chiến đấu gian khổ nhất, hy sinh và mất mát nhiều nhất. Trả lời phóng viên báo Granma, Cu Ba ngày 14-7-1969, Người bày tỏ: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp tất cả những nổi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”[28]. Với Hồ Chí Minh lòng nhân ái, tư tưởng “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước” của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi… dường như luôn thấm nhuần trong suy nghĩ, hành động. Người cho rằng, nhân dân ta rất anh hùng, luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Vì thế, Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân[29], đồng thời phải không ngừng khơi dậy niềm tin, lòng tự hào và ý chí vươn lên của những con người ấy.
Trong Di chúc, Người căn dặn phải khắc ghi công ơn của các anh hùng, liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân. Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động, túng thiếu thì chính quyền phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét. Người chăm lo đến việc đào tạo, dạy nghề cho các chiến sĩ trẻ tuổi, thanh niên xung phong; quan tâm đến cuộc sống của giai cấp nông dân bởi đây là lực lượng đã hy sinh, đóng góp nhiều sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến. Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp “để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”[30]. Ở đây, tư tưởng nhân nghĩa của các bậc tiền nhân trong thế ứng xử chính trị sau khi bão táp của các cuộc chiến tranh qua đi lại ngưng kết trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Người luôn nhớ tới tất cả mọi người và cũng không quên công đức của một ai[31]. Thấu hiểu đặc tính của xã hội Việt Nam, thường xuyên chỉ đạo, dõi theo các phong trào dân tộc, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, trong chiến đấu và sản xuất... Quan điểm bình đẳng nam - nữ; bình đẳng giai cấp, đẳng cấp; không phân biệt “sang, hèn”, sự khác biệt nghề nghiệp; thực sự tin yêu, quý trọng con người là giá trị tiêu biểu trong Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện rõ quan điểm cốt lõi: Đất nước của nhân dân, Đảng của nhân dân và Nhà nước của nhân dân.
Sau những diễn tiến chính trị năm 1968-1969, Người đã tiên liệu về những khó khăn, thách thức to lớn mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta chắc chắn sẽ phải tiếp tục vượt qua để đi đến thắng lợi cuối cùng. Hồ Chí Minh luôn thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào sự nghiệp toàn thắng của dân tộc. Về công cuộc tái thiết đất nước, Người chỉ rõ: “Công việc trên là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang”[32]. Đó là “cuộc chiến đấu khổng lồ” vì thế cần phải động viên toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân thì mới giành được thắng lợi.
Trong chiến lược xây dựng con người, cùng với việc luôn khuyến khích học tập chính trị, rèn luyện đạo đức, Người cũng rất quan tâm đến việc đào tạo văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật cho thế hệ trẻ, bởi “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[33]. Theo Hồ Chí Minh, mọi người đều phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Mô hình xã hội muốn vươn tới như thế nào thì phải có con người thích ứng và làm chủ mô hình xã hội đó. Người luôn coi trọng văn hóa, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân và coi đó là nội dung cơ bản trong chiến lược “trồng người’ vì lợi ích trăm năm và vì sự trường sinh của đất nước.
Lời tạm kết
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện độc đáo, có ý nghĩa lịch sử và giá trị to lớn, giúp chúng ta hiểu thêm về đất nước, con người, thời đại. Di chúc là bản đúc kết lịch sử, gợi mở nhiều suy nghĩ, xác định nhiệm vụ, công việc lớn mà Đảng, Nhà nước cần tập trung lãnh đạo, giải quyết trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và cả sau khi sự nghiệp thống nhất thành công. Bản Di chúc đã thể hiện tình cảm sâu nặng của Người với nhân dân, đất nước, niềm tin mãnh liệt về sự nghiệp toàn thắng và tiền đồ phát triển của Tổ quốc Việt Nam, của con người và văn hóa Việt Nam. Có thể tìm thấy trong những lời dạy bình dị của Người nhiều ý tưởng sâu xa bởi: “Mọi lời nói, mọi việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể, nói là làm, thường làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động”[34].
- Với tầm nhìn của một Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, bản Di chúc đã khắc họa sâu đậm Nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh - Một nhân cách đặc biệt, uyên thâm, ấm áp, dung dị, rộng lớn. Chính tầm nhìn chính trị, tầm vóc văn hóa rộng lớn đó mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được nhân dân thế giới yêu mến, kính trọng. Người là biểu tượng cho lòng dũng cảm, ý chí kiên cường và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Việt Nam, là hiện thân sinh động của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa tư duy và hành động. Cách nhìn và tiếp cận của Người về con người, văn hóa thể hiện chiều sâu truyền thống tư tưởng Việt Nam, Á châu đồng thời chứa đựng nhiều triết lý phát triển lớn của thời đại.
- Được viết cách đây nửa thế kỷ, bối cảnh lịch sử trong nước, quốc tế có nhiều đổi khác nhưng đọc Di chúc, suy nghĩ về những lời dạy của Người luôn thấy tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người thật ân tình, tỏa rạng. Tư tưởng về con người luôn quán xuyến trong suy nghĩ, hành động, trong các chủ trương, chính sách và nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ. Người đã đấu tranh, nâng tầm quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Mẫu hình con người mà Hồ Chí Minh luôn giáo dục, hướng tới là “trung với Đảng, hiếu với dân”, khiêm tốn, trung thực, sống có lý tưởng, hành động và luôn có tinh thần cầu thị. Tình cảm sâu nặng và những tư duy vượt thời đại của Người về đất nước, con người, văn hóa... vẫn khắc ghi trong ký ức của hàng triệu người dân Việt Nam, tượng trưng “cho ý chí kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam”[35], đồng thời là biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai của nhân loại[36]. Những giá trị nhân văn đó giúp chúng ta hiểu thêm về tư tưởng, đức hy sinh, cống hiến “vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”[37] của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trước đây cũng như công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế hiện nay.
[1] Nguyễn Văn Linh: Lời chào mừng Hội thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, UNESCO và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1990, tr.10.
[2] Trần Văn Giàu: Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – Đặc điểm và cội nguồn, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.241.
[3] Song Thành: Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kệt xuất, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2015, tr.38.
[4] T.N. Kaul: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà ái quốc Việt Nam vĩ đại, người bạn lớn của nhân dân Ấn Độ và toàn nhân loại, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.26-27.
[5] Xem các bài viết trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Hội xuất bản Việt Nam: Hồ Chí Minh - Người mang lại ánh sáng, Nxb. Thời đại - Tạp chí Xưa & Nay, H., 2011.
[6] Lê Mậu Hãn: Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2017, tr.33-36.
[7] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, trong Thủ tướng Phạm Văn Đồng của chúng ta, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr.452.
[8] Diễn văn của Phi-den Ca-xtơ-rô đọc tại Hà Nội tháng 9-1973. Xem Miguel de Stéphano: Hồ Chí Minh - Con người của nhân loại, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.52.
[9] Vũ Dương Ninh: Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ quốc tế - Lịch sử và vấn đề, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2016, tr.39-48; Nhiều tác giả: Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2010.
[10] Đinh Xuân Lâm: Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, Nxb. Giáo dục, H., 2015, tr.204-217.
[11] Võ Nguyên Giáp: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, tr.14.
[12] Phát biểu của Tiến sĩ Modagat Ahned, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đại diện đặc biệt của Tổng Giám đốc UNESCO, tại phiên khai mạc Hội thảo quốc tế “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của Việt Nam” nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/1990).
[13] Phạm Văn Đồng: Hồ Chủ tịch - Hình ảnh của dân tộc, trong Thủ tướng Phạm Văn Đồng của chúng ta, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr.333.
[14] Võ Nguyên Giáp: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.16.
[15] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr.1.
[16] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Sđd, tr.2.
[17] Hà Minh Đức: Hồ Chí Minh – Anh hùng dân tộc và tầm thời đại của Người, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2018, tr.271.
[18] Trước lúc đi xa Người từng nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.674-677.
[19] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.454.
[20] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.453.
[21] Vũ Kỳ: Bác Hồ viết di chúc (Thế Kỷ ghi), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1999, tr.65.
[22] Trần Văn Giàu: Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - Đặc điểm và cội nguồn, Sđd, tr.240. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, việc tôn trọng phụ nữ là một trong những tiêu chí căn bản thể hiện tư duy mới và khác biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh so với quan niệm Nho giáo truyền thống. Võ Nguyên Giáp: Phát biểu tổng kết Hội thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.244-245.
[23] Việt Phương: Một số mẩu chuyện về đời sống hàng ngày của Bác Hồ, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2000, tr.18-19.
[24] T.N. Kaul: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà ái quốc Việt Nam vĩ đại, người bạn lớn của nhân dân Ấn Độ và toàn nhân loại, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.24.
[25] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.616.
[26] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.611
[27] Lê Khả Phiêu: Diễn văn tại Lễ kỷ niệm lần thứ 109 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, trong: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1999, tr.57.
[28] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.674.
[29] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.612.
[30] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.617.
[31] Phạm Văn Đồng: Hồ Chủ tịch - Hình ảnh của dân tộc, Sđd, tr.340.
[32] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.617.
[33] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.617.
[34] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.454.
[35] Điếu văn của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thứ thứ nhất BCHTW đọc tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xem Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sđd, tr.42.
[36] Osip Mandelstam: Đến thăm một chiến sĩ Quốc tế Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Ngọn lửa nhỏ (Liên Xô), số 39, ngày 23-12-1923.
[37] Điếu văn của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam - Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sđd, tr.41.
Bài viết đã đăng trên Tạp chí Cộng sản số 927 (10), 2019, tr.26-32.
Tác giả: GS.TS Nguyễn Văn Kim