Ngôn ngữ
Giáo sư Hà Văn Tấn sinh ngày 16-08-1937 tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (cùng làng với đại thi hào Nguyễn Du) - một vùng đất, một dòng họ hiếu học và khoa bảng với nhiều danh nhân hiền tài thời nào cũng có.
Khi còn nhỏ, Giáo sư Hà Văn Tấn sống và học tập ở quê hương, thừa hưởng truyền thống gia đình, dòng họ và mảnh đất văn hiến nơi ông sinh ra. Đầu năm 1955, sau khi tốt nghiệp lớp 9, Hà Văn Tấn ra Hà Nội, sau một năm vừa học vừa làm vất vả, Hà Văn Tấn quyết định vào học khoa Sử đại học Sư phạm. Năm 1957, ở tuổi hai mươi, Hà Văn Tấn đã tốt nghiệp đại học (đứng thứ 2 - Á nguyên) và ở lại trường làm cán bộ bộ môn Lịch sử cổ đại Việt Nam, Đại học Sư phạm (ngày đó, hai trường Đại học Sư phạm và Đại học tổng hợp có chung khung cán bộ giảng dạy, nhưng Hà Văn Tấn thuộc biên chế trường Sư phạm, sau này, khi hai trường tách địa điểm, ông mới thuộc biên chế trường Tổng hợp) do Giáo sư Đào Duy Anh phụ trách.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn (1934-2019)
Giáo sư là Chủ nhiệm Bộ môn Phương pháp luận sử học, Khoa Lịch sử (1982 - 2009); Viện trưởng Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) (1988-2008).
Trong cuộc đời của Hà Văn Tấn, điều may mắn là ông được học và sau đó là làm việc cùng những người thầy mà sau này đã có ảnh hưởng rất lớn đến bước đường học tập của ông. Trước hết là thầy Ngụy Cao Hiền, con cháu dòng họ Ngụy Khắc Tuần, Ngụy Khắc Đản khi Hà Văn Tấn còn học trung học ở Hà Tĩnh. Ở khoa Sử là các Thầy như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Cao Xuân Huy… Nhưng đáng tiếc sau đó ít lâu các thầy đều phải đi khỏi trường. Từ đó, Hà Văn Tấn bắt đầu một hành trình không mệt mỏi là học - dạy - học - dạy đan xen nhau.
Khi về tập sự ở bộ môn Lịch sử cổ đại Việt Nam, Hà Văn Tấn lo lắng lắm. Hà Văn Tấn tự trào “Với trình độ 9+2 thì làm ăn gì được”, vì vậy, ông xác định phải lao vào học. Mà trước mắt ông là tấm gương tự học lớn lao của giáo sư Đào Duy Anh. Muốn tự học thì chỉ có cách là đọc sách. Mà muốn đọc sách thì phải nắm vững ngôn ngữ. Trước khi học ngoại ngữ, Hà Văn Tấn đã học tiếng Việt, đọc các sách viết về ngữ âm, ngữ pháp và đặc biệt tìm hiểu các vấn đề liên quan đến nguồn gốc tiếng Việt. Sau này Hà Văn Tấn giỏi ngôn ngữ đến mức trở thành hội viên Hội Ngôn ngữ Việt Nam và được nhà ngôn ngữ Cao Xuân Hạo mời cùng làm ngôn ngữ học. Rồi sau đó, chỉ nhờ tự học ông đã thông thạo, sử dụng tốt chữ Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Nhật. Hà Văn Tấn học tiếng Đức qua sách tiếng Nga, tiếng Nhật qua sách tiếng Trung Quốc rồi còn tự tìm cách học tiếng Sanskrit (Phạn) - một thứ ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại rất khó học thông qua tiếng Đức. Với Hà Văn Tấn ngôn ngữ chỉ là cái chìa khóa chứ không phải mục đích và quả vậy, ngoại ngữ đã giúp ông rất nhiều trên hành trình khoa học của mình.
Tác phẩm đầu tiên mà thầy Đào Duy Anh giao cho Hà Văn Tấn làm là hiệu đính Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào thế kỷ XV, được cụ cử nhân Nho học Phan Huy Tiếp dịch ra chữ Quốc ngữ. Bản “chú thích” nhưng dài tới 115 trang, gấp 4 lần chính văn (38 trang). Để tìm tài liệu cho phần “chú thích” ấy, Hà Văn Tấn đã phải đọc khoảng 30 bộ sách Trung Quốc, 16 bộ sách Việt Nam, tất cả đều trong nguyên văn chữ Hán (theo thống kê của nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc). Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê viết: “Tác phẩm đầu tay của anh Tấn là hiệu đính và chú thích cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi do cụ Phan Duy Tiếp dịch, xuất bản năm 1960 lúc anh mới 23 tuổi. Tôi còn nhớ, trong buổi họp Bộ môn, khi nhận xét về công trình này, GS Đào Duy Anh đã nói đại ý: “Rất công phu, nghiêm túc, tôi rất hài lòng và tin cậy ở tác giả”. Tài năng và phong cách khoa học của anh đã được bộc lộ ngay trong công trình đầu tay này.”
Sau khi thầy Đào Duy Anh đi khỏi trường, Hà Văn Tấn được giao dạy Lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hết thời nhà Hồ. Và, do vậy, ông được GS. Trần Văn Giàu phân cùng Trần Quốc Vượng viết Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ở Việt Nam và tập I Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Qua việc viết hai tập sách này, Hà Văn Tấn thấy hứng thú với các vấn đề tiền sử Việt Nam và các vấn đề giai đoạn từ đầu tự chủ đến cuối Trần. Có thể nói, định hướng của toàn bộ cuộc đời khoa học của ông đã được xác định.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn thời trẻ
Năm 1960, Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội mời giáo sư, tiến sĩ P.I.Boriskovsky ở Đại học Tổng hợp Lêningrat sang giúp Việt Nam xây dựng ngành khảo cổ học. Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng được đi theo "Cụ Bô" trong các chuyến điều tra khảo cổ học để học hỏi. Các ông không chỉ làm quen với các di tích người Pháp đã phát hiện của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn, mà còn tự mình có những phát hiện mới. Là một chuyên gia về đá cũ, những kinh nghiệm cũng như những bài giảng sống động của Giáo sư Boriskovsky đã có ảnh hưởng nhiều đến Hà Văn Tấn. Hơn thế, dưới sự chỉ đạo của Giáo sư “Bô”, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng đã viết Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam (in năm 1961). Cuốn sách, ngoài những tri thức chung, còn kết hợp trình bày những phát hiện mới của khảo cổ học Việt Nam về thời đại đá. Và như một cơ duyên, năm 1988 ông bắt đầu công tác ở Viện Khảo cổ học, sau đó làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học, Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
Khảo cổ học đòi hỏi một hiểu biết rộng và những tri thức liên ngành. Bởi vậy, Hà Văn Tấn lấn sang nghiên cứu Nhân học hình thể (Anthropologie Physique), đặc biệt là nghiên cứu về sọ, rồi toán học thống kê, khảo cổ học Đông Nam Á tiền sử. Mỗi khi khám phá và chinh phục được lĩnh vực mới, Hà Văn Tấn để lại dấu ấn của mình trên lĩnh vực ấy với những sản phẩm khoa học được đánh giá cao. Hà Văn Tấn không bao giờ học để học, mà học để ra sản phẩm dưới dạng này hoặc dạng khác. Từ đó, ông rút ra hai kinh nghiệm quý giá cho các nhà khoa học sau ông là "muốn học có kết quả môn nào thì phải biết gắn những điều đã học với nghiên cứu giảng dạy" và "say mê không đủ, phải bền gan, và có chút ít liều mạng, liều mạng một cách nghiêm túc!". Có lẽ bởi vậy, trong cuộc đời gần 50 năm miệt mài nghiên cứu gắn với giảng dạy ông đã hướng dẫn 25 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, đã công bố 298 bài báo, tham luận, nghiên cứu khoa học trên tạp chí trong và ngoài nước. Ông còn là tác giả và đồng tác giả của 15 cuốn sách. Những thành công đó không chỉ của riêng Khảo cổ học.
Giáo sư Hà Văn Tấn tại Lễ kỷ niệm thành lập Viện Khảo cổ
Niềm say mê và cũng là lĩnh vực thành công tiếp theo của Hà Văn Tấn là lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến XIV. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông (viết chung) là một cuốn sách tiêu biểu cho những nghiên cứu của ông về thời kỳ này. Theo Đỗ Thúy Lai, cuốn sách hấp dẫn không chỉ bởi nhiều tư liệu nước ngoài quý hiếm, mà còn ở cách viết với nhiều phân tích sáng sủa, chặt chẽ, tái hiện được không khí lịch sử và đã khẳng định từ rất sớm trình độ uyên bác, khả năng thâm hậu của Hà Văn Tấn. Từ nghiên cứu lịch sử cổ trung đại, Hà Văn Tấn chú ý đến vấn đề ruộng đất, vấn đề văn hóa trong giai đoạn thế kỷ X đến thế kỷ XIV. Sự yêu thích lịch sử Phật giáo đã bắt đầu nảy nở trong Hà Văn Tấn từ khi ông nghiên cứu các cột kinh Phật ở Hoa Lư, sau đó ông đi sâu tìm hiểu Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV và viết những nghiên cứu của mình trong bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Muốn hiểu lịch sử Phật giáo Việt Nam, Hà Văn Tấn phải đọc rộng thêm về lịch sử Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc. Rồi từ Phật giáo Ấn Độ phải học triết học Ấn Độ cổ trung đại, sau đó rộng ra là lịch sử triết học phương Đông…
"Tứ trụ" sử học Việt Nam
Lý luận sử học không phải lĩnh vực ưu tiên số một trong hoạt động nghiên cứu của Hà Văn Tấn nhưng như những nhà sử học lớn khác, từ rất sớm, ông đã nhận ra sự cần thiết của lý luận sử học trong nghiên cứu lịch sử và dường như lý luận sử học với ông là duyên nợ. Từ những năm 70, Hà Văn Tấn đã giảng cho sinh viên Khoa Sử các chuyên đề về Sử liệu học, Văn bản học… Đến năm 1982 ông đã đề xuất với Khoa và chuẩn bị mọi điều kiện để thành lập ở Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội bộ môn Phương pháp luận sử học mà sau đó ông được phân công làm chủ nhiệm Bộ môn. Bắt tay nghiên cứu phương pháp luận, ông phải đọc nhiều bộ sách tương tự của nước ngoài. Có đọc, ông mới vỡ lẽ rằng chẳng có quyển nào trình bày phương pháp luận sử học hoàn chỉnh. Các tác giả chỉ trình bày một số vấn đề có tính chất phương pháp luận chứ không phải trình bày phương pháp luận sử học một cách hệ thống. Ông tìm cho mình một cách trình bày có điểm xuất phát là lý thuyết hoạt động mà Marx đã nêu. Dựa theo lý thuyết đó, ông coi nghiên cứu khoa học như là một hoạt động có đối tượng hoạt động là đối tượng của khoa học và chủ thể hoạt động là nhà khoa học. Hà Văn Tấn còn chú trọng đào tạo chuyên môn cho các cán bộ trong Bộ môn Phương pháp luận sử học, hướng dẫn đội ngũ cán bộ trẻ xây dựng, hoàn thiện chương trình đào tạo, hỗ trợ tư liệu học tập nghiên cứu... Đáng tiếc là dự định viết một cuốn sách giáo trình về phương pháp luận của ông chưa viết xong, cũng như giáo trình khác mà Hà Văn Tấn muốn viết như sử liệu học, văn bản học, ấn chương học, cổ văn tự học, minh văn học… và tập bài giảng về Khảo cổ học lý thuyết, về các trường phái khảo cổ học, hay về khảo cổ học Đông Nam Á…thì ông lâm trọng bệnh.
Ông được phong hàm Giáo sư năm 1980, được trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - công nghệ (2000), và nhiều huy chương khác. Nhưng cao hơn cả, ông là một trong “tứ trụ triều đình” của sử học Việt Nam, sự đóng góp của những người Thầy như ông đã làm nên một Khoa Lịch sử Anh hùng, tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của Khoa Lịch sử, của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
GIÁO SƯ, NHÀ GIÁO NHÂN DÂN HÀ VĂN TẤN
Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2000 cho công trình Theo dấu các văn hoá cổ. |
Tác giả: ThS. Hồ Thị Liên Hương
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn