THÔNG TIN VỀ LUẬN VĂN THẠC SĨ
1. Họ và tên học viên: NGUYỄN THÀNH TRUNG 2. Giới tính: Nam
3. Ngày sinh: 26/12/2000 4. Nơi sinh: Hà Nội
5. Quyết định công nhận học viên số: 5626/QĐ/XHNV ngày 29 tháng 12 năm 2023 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Các thay đổi trong quá trình đào tạo: Không
7. Tên đề tài luận văn: Thích ứng của công nhân người dân tộc thiểu số với điều kiện nhà ở tại một số khu công nghiệp Hà Nội
8. Chuyên ngành: Nhân học (định hướng nghiên cứu) Mã số: 8310302
9. Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Hằng và TS. Phan Thị Ngọc - Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN
10. Tóm tắt các kết quả của luận văn:
Luận văn tập trung vào việc làm rõ thực trạng và các chiến lược thích ứng về vấn đề nhà ở trong bối cảnh công nghiệp hoá, đô thịhoá ở Hà Nội với sự gia tăng nhanh của các khu công nghiệp và dòng lao động nhập cư, trong đó có một bộ phận đáng kể là công nhân người dân tộc thiểu số. Ở cấp độ an sinh, nhà ở không chỉ là nhu cầu cơ bản mà còn là mắt xích then chốt quyết định chất lượng sống, năng suất lao động và khả năng gắn bó dài hạn với đô thị của người công nhân dân tộc thiểu số.
Bức tranh tổng thể cho thấy phần lớn công nhân dân tộc thiểu số thuê trọ trong các khu dân cư, nhà trọ tư nhân gần khu công nghiệp. Nhà trọ tư nhân trở thành lựa chọn áp đảo nhờ linh hoạt, giá đa dạng và vị trí thuận tiện cho đi làm, trong khi các hình thức như nhà tự mua, nhà tập thể công ty hay ký túc xá doanh nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Chất lượng phòng trọ chênh lệch mạnh theo mức giá thuê - được chủ nhà định giá dựa vào thời điểm xây nhà trọ, các tiện ích, diện tích phòng, vị trí nhà trọ; phổ biến là phòng diện tích hạn chế, nhà vệ sinh khép kín hoặc dùng chung, tiện ích cơ bản, ít không gian sinh hoạt chung, các chuẩn tối thiểu về thông gió, nước sạch hay an toàn phòng cháy chữa cháy chưa đồng đều. Cấu hình nơi ở của công nhân biến thiên theo giới, tuổi, tình trạng hôn nhân, sự có mặt của con nhỏ và thời gian gắn bó với đô thị; nhóm độc thân dễ chấp nhận không gian nhỏ, dùng chung; nhóm gia đình hạt nhân ưu tiên an ninh, tiện ích và sự ổn định tương đối của căn hộ hoặc nhà kiên cố.
Trường hợp khu nhà ở xã hội Kim Chung tại xã Kim Chung, Đông Anh (nay là xã Thiên Lộc) cung cấp một trường hợp để quan sát cách vận hành quỹ nhà ở do Nhà nước đầu tư cho lao động khu công nghiệp. Dự án được khởi xướng từ cuối thập niên 2000 và hoàn thiện dần trong thập kỷ tiếp theo với quy mô hàng chục đơn nguyên, kết hợp hai mô hình khai thác: cho hộ gia đình thuê căn hộ và cho doanh nghiệp thuê khối nhà năm tầng vận hành kiểu ký túc xá. Trong giai đoạn vận hành, bên cạnh những đóng góp về cung ứng chỗ ở gần nơi làm việc với giá hợp lý, cơ chế bảo trì - sửa chữa, quy trình quản lý cư trú và mức độ linh hoạt trong đặt chỗ theo mùa đơn hàng bộc lộ các điểm nghẽn khiến doanh nghiệp giảm mặn mà, tỷ lệ phòng trống tăng lên theo thời gian. Đối chiếu với nhu cầu thực của công nhân, nhất là nhóm có con nhỏ, số suất thuê hộ gia đình vẫn chưa tương xứng, trong khi mô hình ký túc xá đòi hỏi nâng cấp chất lượng dịch vụ và kỷ luật vận hành theo chuẩn rõ ràng hơn. Ngoài ra, công nhân người DTTS rất khó để có thể mua được nhà ở xã hội mà không thông qua môi giới vì những thủ tục hành chính phức tạp và không có các mối quan hệ.
Các khu trọ tư nhân quanh Khu công nghiệp Thăng Long - điển hình là thôn Bầu và những cụm dân cư lân cận - hình thành mạng lưới chỗ ở dày đặc, chạy dọc các ngõ nhỏ và xen kẽ nhà ở của cư dân địa phương. Mô thức phổ biến là chủ nhà ở cùng khuôn viên với người thuê nhưng tách lối đi; điện nước tính theo đồng hồ riêng hoặc thoả thuận; chi phí đặt cọc thấp, thời hạn thuê linh hoạt nên phù hợp với công nhân làm việc theo ca hoặc theo mùa đơn hàng. Tuy vậy, sự tự phát dẫn tới chất lượng không đồng đều, nguy cơ về an toàn cháy nổ, vệ sinh môi trường và thiếu các không gian cộng đồng thân thiện cho sinh hoạt gia đình, đặc biệt đối với trẻ nhỏ.
Những yếu tố định hình lựa chọn nơi ở xuất phát trước hết từ thu nhập và khả năng chi trả. Thu nhập bình quân hộ công nhân trong mẫu khảo sát chỉ ở mức trung bình khá so với mặt bằng đô thị; chi tiêu cho thuê nhà thường dao động quanh khoảng một phần mười thu nhập, nhưng biến thiên theo loại hình và mức độ tiện ích. Khoảng cách tới nhà máy và lịch ca kíp là biến số nhạy nhất với quyết định chọn trọ gần cổng khu công nghiệp để cắt giảm thời gian và chi phí đi lại, nhất là với ca đêm. Hoàn cảnh gia đình, vòng đời cư trú đô thị và những khác biệt văn hoá tộc người tiếp tục điều tiết lựa chọn: gia đình có con nhỏ ưu tiên an ninh, trường lớp và không gian ở, trong khi một số tập quán sinh hoạt khiến người lao động mong muốn ở gần đồng hương để chia sẻ chi phí và hỗ trợ tinh thần. Mạng lưới xã hội vì thế trở thành cơ chế neo bám quan trọng, giúp người mới nhập cư nhanh chóng tiếp cận thông tin phòng trọ, việc làm, dịch vụ cơ bản, đồng thời tạo cảm giác an toàn giữa một môi trường xa lạ. Tuy nhiên, chính mạng lưới cũng có thể khóa người lao động vào quỹ đạo chỗ ở giá rẻ nếu thiếu cơ chế dẫn dắt tới quỹ nhà chính thức hay những gói hỗ trợ chi trả phù hợp.
Nghiên cứu cho thấy người DTTS di cư tại các KCN thích ứng khá chậm trong vấn đề nhà ở: những năm đầu lưu trú đô thị, đa số công nhân dân tộc thiểu số dừng lại ở nhà cấp bốn hoặc nhà bê tông tự xây trong dân, tỷ lệ ở căn hộ hoặc chung cư còn khiêm tốn; về sau, khi tích lũy tăng và mạng lưới xã hội vững hơn, một bộ phận bắt đầu dịch chuyển sang loại hình ổn định hơn, song tốc độ chuyển đổi bị kìm bởi chi phí đô thị cao và ưu tiên gửi tiền về quê. Quá trình thích ứng văn hoá thể hiện ở việc điều chỉnh thời gian biểu theo ca kíp, học cách sử dụng không gian chật, thoả hiệp với quy ước chung trong xóm trọ đa vùng - đa tộc người, đồng thời tiếp tục duy trì những thực hành văn hoá lõi ở mức tối giản. Về tài chính, chiến lược phổ biến là giới hạn chi cho nhà ở ở ngưỡng vừa tầm để chừa dư địa cho chi tiêu thiết yếu và tích luỹ, song các cú sốc như ốm đau, giảm đơn hàng có thể nhanh chóng đẩy hộ gia đình vào thế dễ tổn thương, mất ổn định nơi ở. Kênh hỗ trợ được tìm đến nhiều nhất vẫn là bạn bè, đồng hương; kế đến là công đoàn cơ sở, chủ nhà trọ và chính quyền địa phương, trong khi việc tiếp cận thông tin và thủ tục nhà ở xã hội còn hạn chế cả về tính thân thiện lẫn tính kịp thời.
Đóng góp chính của luận văn là cung cấp thông tin cập nhật về thực trạng nhà ở của công nhân dân tộc thiểu số tại Hà Nội, cho thấy vai trò chi phối của khu trọ tư nhân, những điểm nghẽn trong vận hành quỹ nhà ở xã hội tại điểm điển hình Kim Chung, và sự thích ứng chậm của người lao động trong hành trình đô thị hoá.
Tổng thể, luận văn khẳng định muốn cải thiện bền vững chất lượng sống và năng lực gắn bó của công nhân dân tộc thiểu số với đô thị, cần một gói giải pháp đồng thời cải thiện chất lượng - khả năng chi trả của chỗ ở, đơn giản hoá tiếp cận quỹ nhà chính thức và củng cố mạng lưới hỗ trợ tại nơi đến, qua đó biến vấn đề nhà ở từ một trong những vấn đề khó giải quyết nhất thành nền tảng của hoà nhập xã hội đối với công nhân DTTS và phát triển kinh tế, công nghiệp đối với địa phương, xã hội.
11. Khả năng ứng dụng trong thực tiễn:
Đề tài nghiên cứu của luận văn không chỉ có giá trị khoa học và còn có giá trị thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình tư vấn chính sách cho chính quyền nhà nước các cấp và doanh nghiệp. Ví dụ như:
- Hoàn thiện chính sách phát triển nhà ở cho công nhân
- Hỗ trợ quy hoạch và thiết kế mô hình nhà ở bền vững
- Nâng cao hiệu quả quản lý cư trú và dịch vụ xã hội
- Cải thiện chất lượng sống và phúc lợi của công nhân
- Cung cấp cơ sở cho doanh nghiệp triển khai chính sách nhân sự, phúc lợi tốt hơn và hợp lý hơn
- Đóng góp cho quản trị phát triển đô thị - công nghiệp bền vững
12. Những hướng nghiên cứu tiếp theo:
Trong thời gian tới, nghiên cứu sẽ được mở rộng sang các khía cạnh khác của an sinh xã hội đối với công nhân làm việc tại các khu công nghiệp. Bên cạnh đó, tác giả cũng dự định tiến hành khảo sát tại điểm đi nhằm phân tích những biến đổi kinh tế – xã hội tại cộng đồng xuất cư khi có lao động di cư rời khỏi địa phương. Việc kết hợp nghiên cứu ở cả điểm đến và điểm đi được kỳ vọng sẽ giúp hiểu rõ hơn tác động toàn diện của di cư đối với người lao động và cộng đồng liên quan.
13. Các công trình đã công bố có liên quan đến luận văn: “Nhà ở của người lao động dân tộc thiểu số di cư tại một số khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội”, đăng trên Tạp chí Dân tộc học và Tôn giáo học số 2 (02), 2025, tr.59-69.
INFORMATION ON MASTER’S THESIS
1. Full name : NGUYEN THANH TRUNG 2. Sex: Male
3. Date of birth: 26/12/2000 4. Place of birth: Hanoi
5. Admission decision number 5626/ QĐ/ XHNV, Dated: 29/12/2023
6. Changes in academic process: None
7. Official thesis title: Adaptation of Ethnic Minority Workers to Housing Conditions in Some Industrial Zones in Hanoi
8. Major: Anthropology 9. Code: 8310302
10. Supervisors: PhD. Tran Minh Hang and PhD Phan Thi Ngoc
11. Summary of the findings of the thesis:
The thesis focuses on elucidating the current housing conditions and adaptive strategies of migrant workers in the context of industrialization and urbanization in Hanoi, where the rapid expansion of industrial zones has attracted large flows of migrant labor, including a significant proportion of ethnic minority workers. At the level of social welfare, housing is not only a basic need but also a crucial determinant of living quality, work productivity, and the ability of ethnic minority workers to establish long-term attachment to the city.
Overall, most ethnic minority workers rent rooms in residential clusters or private boarding houses near industrial zones. Private rental housing has become the dominant option due to its flexibility, varied pricing, and convenient location, while forms such as self-owned housing, company dormitories, or enterprise-run hostels account for only a small share. Rental quality varies widely depending on price—typically determined by the time of construction, available amenities, room size, and location. Common features include small rooms, self-contained or shared bathrooms, basic utilities, limited shared spaces, and inconsistent standards of ventilation, clean water, and fire safety. Housing configurations differ according to gender, age, marital status, the presence of young children, and length of urban residence; single workers tend to accept smaller or shared spaces, whereas nuclear families prioritize security, amenities, and the relative stability of solid-built houses or apartments.
The case of the Kim Chung Social Housing Complex in Kim Chung Commune, Đông Anh District (now Thiên Lộc Commune) provides an illustrative example of how state-invested housing for industrial workers is organized. Initiated in the late 2000s and gradually completed in the following decade, the project comprises dozens of buildings operating under two models: apartment units rented directly to worker households, and five-story blocks leased to enterprises to run hostel-style accommodations. Despite offering reasonably priced housing close to workplaces, operational issues—such as maintenance mechanisms, residence management procedures, and the rigidity of seasonal booking arrangements—have resulted in decreasing enterprise interest and rising vacancy rates over time. Compared to actual worker needs, particularly among households with young children, the quota of family rental units remains insufficient, while the hostel model requires significant upgrades in service quality and operational discipline. In addition, ethnic minority workers face substantial difficulty purchasing social housing without intermediaries due to complex administrative procedures and limited connections.
Private rental clusters around the Thăng Long Industrial Park—exemplified by Bầu Village and adjacent communities—form dense housing networks along narrow alleys, interspersed with local residents’ homes. The typical model involves landlords living within the same plot but with separate entrances for tenants; electricity and water are billed by meter or mutual agreement; deposits are low and rental terms flexible, fitting the work rhythms of shift-based or seasonal workers. However, informality leads to inconsistent quality, heightened fire safety risks, environmental hygiene concerns, and a general lack of community-friendly spaces for family life, especially for young children.
Housing choices are shaped primarily by income and affordability. Average household incomes among surveyed workers were only moderately higher than the urban baseline; housing costs typically accounted for around one-tenth of income but varied according to housing type and amenities. Distance to the factory and work-shift schedules were the most decisive factors, encouraging workers to live as close as possible to industrial-zone gates to minimize commuting time and costs, particularly for night shifts. Family circumstances, stage of urban settlement, and ethnic cultural differences further shaped decision-making: households with young children prioritized security, schooling, and adequate living space, while certain cultural practices motivated workers to live near co-ethnic peers for cost-sharing and emotional support. Social networks thus functioned as key anchoring mechanisms, helping newcomers quickly access information on housing, jobs, and essential services while providing a sense of safety in an unfamiliar environment. Yet these same networks can also lock workers into low-cost, low-quality rental circuits if no pathways to formal housing or appropriate financial support schemes are available.
Findings show that ethnic minority migrants adapt slowly in terms of housing transitions. In their initial years in the city, most reside in basic, low-cost private rooms, with only a modest proportion able to access apartments or more stable housing types; later, as savings accumulate and social networks strengthen, some gradually shift to more secure options, though the pace of improvement is constrained by high urban living costs and the priority of remitting money home. Cultural adaptation appears through adjustments to shift-based schedules, learning to navigate cramped spaces, conforming to shared norms in multiethnic rental communities, while still maintaining core cultural practices in simplified forms. Financially, the dominant strategy is to cap housing expenditures at an affordable threshold to retain capacity for essential spending and savings; however, shocks such as illness or reduced factory orders can quickly push households into vulnerability and housing instability. The most commonly sought support channels remain friends and co-villagers, followed by grassroots trade unions, landlords, and local authorities; access to information and procedures for social housing remains limited in both user-friendliness and timeliness.
The thesis contributes updated empirical insights into the housing conditions of ethnic minority industrial workers in Hanoi, highlighting the overwhelming role of private rental housing, operational bottlenecks in the Kim Chung social housing complex, and the slow adaptive trajectory of workers in their urban settlement journey.
Overall, the thesis argues that improving the living conditions and long-term urban attachment of ethnic minority workers requires a comprehensive package of solutions: enhancing the quality and affordability of housing, simplifying access to formal housing schemes, and strengthening support networks at the destination. This would transform housing—from one of the most challenging issues—into a foundation for social integration for ethnic minority workers and for sustainable economic and industrial development in the locality.
12. Practical applicability:
This study holds not only scientific value but also significant practical relevance, especially in informing policy consultation for government authorities at various levels as well as for enterprises. For example, the findings can contribute to:
Improving policies on worker housing development;
Supporting the planning and design of sustainable housing models;
Enhancing the effectiveness of residence management and social service provision;
Improving workers’ living conditions and overall well-being;
Providing a basis for enterprises to develop more appropriate and effective human resource and welfare policies;
- Contributing to sustainable urban–industrial development governance.
13. Further research directions:
In the coming period, the study will be expanded to include other aspects of social welfare for workers in industrial zones. In addition, the author plans to carry out fieldwork at the place of origin to examine socioeconomic changes within communities that send migrants to industrial areas. Combining research at both the destination and the point of origin is expected to offer a more comprehensive understanding of the overall impacts of migration on workers and the communities involved.
14. Thesis-related publications:
Journal article “Housing for Ethnic Minority Migrant Workers in Some Industrial Zones in Hanoi, Journal of Anthropology and Religious Studies, No.2 (02) 2025, p.p 59-69.
Tác giả: Phòng ĐT&CTNH
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn